70 năm

Lời tòa soạn

Việt Nam-Lào là hai nước láng giềng núi sông liền một dải, quan hệ gắn kết anh em giữa hai dân tộc đã được hình thành, hun đúc qua lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước.

Trong bảy thập kỷ qua, mối quan hệ truyền thống tốt đẹp, sự gắn bó thủy chung giữa nhân dân hai nước Việt Nam-Lào được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chủ tịch Kaysone Phomvihane đặt nền móng, được các thế hệ lãnh đạo kế tục của hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân hai nước dày công vun đắp, đã trở thành tài sản vô giá của cả hai dân tộc, là quy luật phát triển chung của hai nước trên con đường phát triển phồn vinh, để nhân dân được ấm no, hạnh phúc.

Trong thời kỳ đấu tranh chống ách thống trị và xâm lược của thực dân Pháp, đế quốc Mỹ, hai nước đã cùng chung sức chiến đấu chống kẻ thù chung. Những chiến sỹ quân tình nguyện Việt Nam đã sang Lào để cùng chiến đấu sát cánh bên lực lượng vũ trang Lào, góp phần đưa sự nghiệp kháng chiến chống thực dân, đế quốc của hai nước đi đến thắng lợi vẻ vang.

Nhìn lại chặng đường hào hùng lịch sử đã qua, chúng ta có thể tự hào về quá trình hình thành và phát triển của một mối quan hệ hữu nghị vĩ đại, đoàn kết đặc biệt, hiếm có trên thế giới. Chặng đường ấy ghi dấu sự quyết tâm, hy sinh xương máu và nghĩa tình quân dân từ chính những người con ưu tú của hai dân tộc.

Nhân kỷ niệm 70 năm Ngày truyền thống Quân tình nguyện và Chuyên gia Việt Nam tại Lào (30/10/1949-30/10/2019), phóng viên TTXVN thực hiện loạt 5 bài viết: Những chặng đường hữu nghị và vinh quang.

Liên minh chiến đấu Việt-Lào:

Biểu tượng của tình đoàn kết đặc biệt

Hiền Hạnh

Tháng 8/1954, đồng chí Nguyễn Chí Thanh, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư Tổng Chính ủy, Chủ nhiệm Tổng cục chính trị Bộ Tổng Tư lệnh và đồng chí Chu Huy Mân, Đoàn trưởng Đoàn 100 chuyên gia giúp Lào đến báo cáo và chúc sức khỏe Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tại buổi gặp mặt ý nghĩa này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá cao quan hệ và tình đoàn kết chiến đấu đặc biệt giữa Đảng, quân đội, nhân dân hai nước Việt-Lào. Người căn dặn cán bộ, đảng viên Đoàn 100: “Giúp nhân dân nước bạn tức là mình tự giúp mình.”

Chủ tịch Kaysone Phomvihane cũng từng đánh giá, trong lịch sử cách mạng thế giới đã có nhiều tấm gương trong sáng về tinh thần quốc tế vô sản cao cả, nhưng chưa ở đâu và chưa bao giờ có tình đoàn kết, liên minh chiến đấu đặc biệt, lâu dài, toàn diện như Việt Nam-Lào… Đảng, Nhà nước và nhân dân Lào vô cùng tự hào thấy rằng: Qua những thử thách gay go, quyết liệt trong nhiều thập kỷ, cán bộ, đảng viên, chiến sỹ và nhân dân hai nước đã thề hy sinh tất cả, kể cả hy sinh xương máu của mình vì độc lập dân tộc của hai nước.

“Núi có thể mòn, sông có thể cạn, song tình nghĩa Lào-Việt Nam sẽ mãi mãi vững bền hơn núi, hơn sông.” (Chủ tịch Kaysone Phomvihane)

Con đường chung đi tới độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, cùng nhau xây dựng đất nước hòa bình, thịnh vượng của Việt Nam và Lào bắt nguồn chính từ tình nghĩa sắt son trong liên minh chiến đấu, đoàn kết tương trợ lẫn nhau, như Chủ tịch Kaysone Phomvihane đã khẳng định: “Núi có thể mòn, sông có thể cạn, song tình nghĩa Lào-Việt Nam sẽ mãi mãi vững bền hơn núi, hơn sông.”

Sự ra đời, phát triển của lực lượng Quân tình nguyện và Chuyên gia Việt Nam tại Lào

Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của hai dân tộc, nhân dân hai nước Việt Nam-Lào đã có sự tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau. Sự ra đời của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (ngày 2/9/1945) và Chính phủ Lào Itxala (ngày 12/10/1945) là cơ sở đưa tình đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau giữa hai nước Việt Nam-Lào lên tầm liên minh chiến đấu.

Ngay sau khi giành được chính quyền, Chính phủ hai nước đã ký Hiệp ước tương trợ Lào-Việt(ngày 16/10/1945) và Hiệp định về tổ chức Liên quân Lào-Việt (ngày 30/10/1945). Đó là những văn kiện chính thức đầu tiên tạo cơ sở pháp lý để hai nước Việt Nam, Lào hợp tác và đoàn kết chiến đấu chống kẻ thù chung.

Liên quân Lào–Việt trong kháng chiến chống Pháp, năm 1950. (Nguồn: Tư liệu TTXVN)
Liên quân Lào–Việt trong kháng chiến chống Pháp, năm 1950. (Nguồn: Tư liệu TTXVN)

Từ năm 1948, lực lượng quân sự của Việt Nam tại Lào đã từng bước được tổ chức thành các đơn vị độc lập với quy mô cấp đại đội, tiểu đoàn và trung đoàn. Ngày 30/10/1949, Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương quyết định: “Các lực lượng quân sự của Việt Nam chiến đấu và công tác giúp Lào tổ chức thành hệ thống riêng và lấy danh nghĩa là Quân tình nguyện.”

Đây là mốc lịch sử đánh dấu bước phát triển và trưởng thành của các lực lượng quân sự trên chiến trường Lào; khẳng định đường lối, quan điểm đúng đắn của Đảng ta trong thực hiện nghĩa vụ quốc tế. Ngày 30/10/1949 được lấy làm Ngày truyền thống Quân tình nguyện và Chuyên gia Việt Nam tại Lào.

Tháng 4/1950, Trung ương Đảng và Bộ Quốc phòng – Tổng Tư lệnh quyết định thống nhất các lực lượng Quân tình nguyện hoạt động trên chiến trường Bắc Lào thành ba phân khu (A, B và C), được biên chế thành các trung đoàn, tiểu đoàn và đại đội.

Ngày 30/10/1949, Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương quyết định: “Các lực lượng quân sự của Việt Nam chiến đấu và công tác giúp Lào tổ chức thành hệ thống riêng và lấy danh nghĩa là Quân tình nguyện.”

Sau thắng lợi của chiến dịch Biên giới Thu-Đông 1950 ở Việt Nam, bước sang năm 1951, theo thỏa thuận của lãnh đạo hai nước Việt Nam-Lào, Trung ương Đảng và Bộ Tổng Tư lệnh tiếp tục tăng cường cán bộ và bộ đội tình nguyện sang chiến trường Lào, đưa tổng quân số tăng lên khoảng 12.000 người.

Tháng 4/1951, Trung ương Đảng và Bộ Tổng Tư lệnh quyết định thống nhất các lực lượng Quân tình nguyện ở Bắc Lào và Tây Lào, thành lập Ban cán sự Đảng và Bộ Tư lệnh Quân tình nguyện Mặt trận Thượng Lào. Về mặt tổ chức, Quân tình nguyện Mặt trận Thượng Lào có 4 đoàn: 80, 81, 82 và 83 (mỗi đoàn tương đương một trung đoàn) phụ trách hoạt động giúp bạn trên một địa bàn.

Trong những năm 1954-1959, phương thức hợp tác giúp đỡ của Việt Nam đối với cách mạng Lào có sự thay đổi. Ta chủ trương chuyển từ chế độ Quân tình nguyện (trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp) sang chế độ cố vấn quân sự (từ năm 1959 gọi là Chuyên gia quân sự). Về mặt quân sự, Trung ương Đảng ta đặt chế độ cố vấn tách khỏi hệ thống Quân tình nguyện, thực hiện ở ba cấp: Bộ Quốc phòng, Trường quân chính và các đơn vị, địa phương.

Chuyên gia quân sự Việt Nam với các chiến sĩ Lào. Ảnh: Tư liệu TTXVN
Chuyên gia quân sự Việt Nam với các chiến sĩ Lào. Ảnh: Tư liệu TTXVN

Từ năm 1960, khi đế quốc Mỹ can thiệp ngày càng trắng trợn vào công việc nội bộ của Lào, thực hiện chiến lược “Chiến tranh đặc biệt,” mối quan hệ đoàn kết chiến đấu chống kẻ thù chung của quân đội và nhân dân hai nước Việt Nam-Lào được củng cố và phát triển ngày càng sâu đậm.

Theo thỏa thuận giữa hai Đảng, hai Chính phủ, sau năm 1965, Việt Nam tiếp tục tăng cường các đơn vị tình nguyện và chuyên gia giúp bạn. Quân tình nguyện Việt Nam đã phối hợp chặt chẽ với quân và dân các bộ tộc Lào cùng các đơn vị chủ lực từ Việt Nam sang mở các chiến dịch lớn đánh bại các cuộc hành quân của địch, tiêu diệt các căn cứ phỉ ở Thượng Lào.

Năm 1969, đế quốc Mỹ thực hiện “Chiến tranh đặc biệt tăng cường” ở Lào, yêu cầu nhiệm vụ giúp cách mạng Lào đòi hỏi ngày càng lớn. Để đáp ứng với tình hình mới của bạn, Trung ương Đảng và Bộ Quốc phòng Việt Nam đã chủ động chấn chỉnh tổ chức biên chế các đoàn Quân tình nguyện và Chuyên gia đang làm nhiệm vụ quốc tế ở Lào.

Sau năm 1965, Việt Nam tiếp tục tăng cường các đơn vị tình nguyện và chuyên gia giúp bạn.

Khi đế quốc Mỹ và ngụy quân liều lĩnh mở rộng chiến tranh ra toàn Đông Dương (năm 1970), sự phối hợp chiến đấu giữa lực lượng vũ trang Việt Nam và Lào tiếp tục có bước phát triển mới.

Theo đề nghị của Trung ương Đảng và Bộ Quốc phòng Lào, Trung ương Đảng và Bộ Quốc phòng Việt Nam lần lượt cử các đoàn cố vấn, chuyên gia quân sự 100, 959, 463, 565 và các đoàn Quân tình nguyện 335, 316, 763, 766, 866, 968 sang chiến trường Lào, giúp bạn xây dựng lực lượng, củng cố vùng giải phóng, tiến hành cuộc kháng chiến anh dũng, trường kỳ, gian khổ, hy sinh với bao nhiêu chiến dịch lớn nhỏ để đập tan mọi âm mưu, sách lược của bọn đế quốc và bè lũ tay sai.

“Giúp nhân dân nước bạn tức là mình tự giúp mình”

Với tinh thần quốc tế vô sản và thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Quân tình nguyện và Chuyên gia Việt Nam đã có những đóng góp to lớn, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ cùng với quân đội và nhân dân các bộ tộc Lào giành thắng lợi hoàn toàn trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược (1945–1975).

Không chỉ giúp bạn gây dựng cơ sở chính trị; xây dựng, củng cố lực lượng vũ trang và các căn cứ cách mạng, Quân tình nguyện và Chuyên gia Việt Nam còn góp phần giúp bạn phát triển chiến tranh nhân dân đáp ứng yêu cầu kháng chiến; huấn luyện lực lượng vũ trang, tăng cường công tác chính trị, xây dựng Đảng; đào tạo, bồi dưỡng, phát triển đội ngũ cán bộ đủ sức đảm đương nhiệm vụ của cách mạng Lào.

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, sau khi lực lượng kháng chiến Lào chuyển từ đô thị về các vùng nông thôn, miền núi và sang vùng biên giới Thái Lan, cơ sở chính trị quần chúng còn rất ít. Các đoàn Quân tình nguyện phải phân tán lực lượng, thành lập các đội công tác cơ sở, đội vũ trang tuyên truyền đi vào các bản mường tuyên truyền, giáo dục đường lối kháng chiến, giác ngộ và tổ chức nhân dân vào các hội Itxala.

Liên quân Lào-Việt chào cờ trước khi xuất trận (1946). (Nguồn: Sách ảnh Quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào, NXB Thông tấn)
Liên quân Lào-Việt chào cờ trước khi xuất trận (1946). (Nguồn: Sách ảnh Quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào, NXB Thông tấn)

Trong điều kiện hết sức khó khăn, cán bộ, chiến sỹ Quân tình nguyên đã nêu cao ý chí quyết tâm, sẵn sàng hy sinh, thực hiện “ba cùng với dân, kiên trì bám trụ, xây dựng cơ sở cách mạng. Đặc biệt, Đoàn 83 Quân tình nguyện đã cùng với bạn tuyên truyền, gây dựng cơ sở cách mạng ở Vientiane từ không đến có, từ một vài cơ sở đầu tiên ở vùng Nặm Tòn phát triển lan rộng thành 5 khu căn cứ cách mạng liên hoàn trong lòng địch và một số cơ sở kháng chiến ở các địa phương.

Sự giúp đỡ tích cực của các đoàn Quân tình nguyện và những nỗ lực to lớn của bạn, vào thời điểm cuối cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, cơ sở cách mạng và căn cứ kháng chiến, vùng giải phóng của Lào được mở rộng, trong đó có nhiều khu căn cứ kháng chiến Lào đã nối liền nhau, mở thông với các vùng căn cứ ở Tây Bắc, các vùng hậu phương của Liên khu 4, Liên khu 5 (Việt Nam), tạo thành một thế kháng chiến liên hoàn từ Bắc Lào, Trung Lào đến Hạ Lào, tạo tiền đề quan trọng thúc đẩy cuộc kháng chiến chống Pháp ở Lào phát triển.

Quân tình nguyện và Chuyên gia Việt Nam đã giúp bạn về quân sự, xây dựng lực lượng vũ trang, trong đó chú trọng xây dựng Quân đội Pathet Lào.

Trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, Quân tình nguyện và Chuyên gia Việt Nam đã giúp bạn về quân sự, xây dựng lực lượng vũ trang, trong đó chú trọng xây dựng Quân đội Pathet Lào, làm nòng cốt cho các lực lượng vũ trang và nhân dân các bộ tộc Lào kháng chiến; quan tâm, giúp đỡ xây dựng các đơn vị trung lập yêu nước cùng đoàn kết phối hợp chiến đấu với Quân đội Pathet Lào. Trong những năm 1954-1965, các Đoàn 100, 959, 463, 565 làm nhiệm vụ chuyên gia (cố vấn) quân sự đã vận dụng sáng tạo kinh nghiệm để giúp bạn xây dựng cơ cấu tổ chức lực lượng vũ trang gồm ba thứ quân phù hợp với hoàn cảnh, tình hình cách mạng Lào.

Tháng 2/1966, Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam ra chỉ thị cho các đơn vị Quân tình nguyện Việt Nam tại Lào xây dựng dân quân du kích. Chỉ thị nêu rõ “giúp bạn một cách toàn diện bao gồm cả hệ thống chỉ đạo, chỉ huy và các vấn đề về đường lối, phương châm, chế độ, chính sách thuộc dân quân du kích.”

Đây cũng là nhiệm vụ chủ yếu của các đoàn, tổ chuyên gia quân sự. Suốt những năm kháng chiến chống đế quốc Mỹ, cùng với việc xây dựng lực lượng vũ trang, Quân tình nguyện và Chuyên gia Việt Nam thường xuyên giúp bạn xây dựng các khu căn cứ, vùng giải phóng, làm chỗ dựa để tiến hành các cuộc kháng chiến lâu dài.

Quân giải phóng Nhân dân Lào tiến sát hậu cứ địch để tiêu diệt địch. (Nguồn: Sách ảnh Quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào, NXB Thông tấn)
Quân giải phóng Nhân dân Lào tiến sát hậu cứ địch để tiêu diệt địch. (Nguồn: Sách ảnh Quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào, NXB Thông tấn)

Với phương châm giúp bạn xây dựng thực lực cách mạng, tiến tới tự đảm đương nhiệm vụ, trong kháng chiến chống thực dân Pháp, các đoàn Quân tình nguyện Việt Nam đã sớm hỗ trợ bạn xây dựng, huấn luyện lực lượng vũ trang cách mạng chiến đấu, bảo vệ căn cứ kháng chiến. Lúc đầu, ta đưa bạn vào các đơn vị của mình để kèm cặp, dìu dắt, tổ chức các đơn vị hỗn hợp Việt-Lào, Lào-Việt, sau đó tách ra thành các đơn vị độc lập, phân công nhiệm vụ phù hợp để rèn luyện, nâng cao trách nhiệm và trình độ mọi mặt cho các đơn vị vũ trang cách mạng Lào.

Trên cơ sở lực lượng dân quân du kích và phong trào chiến tranh du kích phát triển, ta giúp bạn xây dựng, huấn luyện bộ đội địa phương và bộ đội chủ lực. Nhờ vậy, đến những năm 1951-1952, cách mạng Lào đã xây dựng được lực lượng vũ trang ba thứ quân, gồm đại đội chủ lực của khu; đại đội bộ đội tỉnh, trung đội vũ trang huyện và dân quân du kích ở bản mường.

Các đoàn Quân tình nguyện hết sức coi trọng nhiệm vụ bồi dưỡng, đào tạo cán bộ cho bạn.

Cùng với việc giúp bạn xây dựng, phát triển lực lượng vũ trang, các đoàn Quân tình nguyện hết sức coi trọng nhiệm vụ bồi dưỡng, đào tạo cán bộ cho bạn. Trong kháng chiến chống Mỹ, Quân tình nguyện và Chuyên gia Việt Nam đã từng bước giúp bạn huấn luyện nâng cao trình độ quân sự với 4 kỹ thuật lớn, trong đó chú trọng kỹ thuật bắn súng và nguyên tắc vận dụng các hình thức chiến thuật đánh địch trong mọi tình huống; tích cực giúp bạn mở các lớp huấn luyện cán bộ ngắn ngày về chính trị, quân sự, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cho bạn ở từng giai đoạn cách mạng.

Sát cánh cùng chiến đấu

Trong suốt 30 năm (1945-1975), quân đội ta cùng quân đội và nhân dân các bộ tộc Lào đã kề vai chiến đấu, từng bước đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Đặc biệt, lực lượng Quân tình nguyện Việt Nam đã cùng quân và dân bạn chiến đấu bảo vệ tuyến đường vận tải chiến lược – Đường Hồ Chí Minh phía Tây Trường Sơn; xây dựng chiến trường Lào thành chiến trường phối hợp với các hướng chiến trường khác, góp phần vào thắng lợi chung của cách mạng ba nước Việt Nam-Lào-Campuchia.

Đầu năm 1951, Đoàn 80 Quân tình nguyện đã cùng với một số đơn vị Quân đội Lào Itxala tổ chức nhiều trận phục kích địch. Những trận đánh nhỏ lẻ bằng các hình thức tập kích, phục kích cùng những trận chống địch càn quét của Quân tình nguyện và Quân đội Lào Itxala những năm 1951-1952 và đầu năm 1953 thắng lợi đã mở ra khả năng chuyển sang đánh nhiều trận liên tiếp; đồng thời phối hợp với các đơn vị quân chủ lực Việt Nam sang mở những chiến dịch lớn.

Bộ đội Pathet Lào cùng bộ đội tình nguyện Việt Nam trực sẵn sàng chiến đấu bằng súng phòng không 14,5mm trên xa thiết giáp do bộ đội tình nguyện Việt Nam tăng cường cho chiến trường Lào (1972). (Nguồn: Sách ảnh Quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào, NXB Thông tấn)
Bộ đội Pathet Lào cùng bộ đội tình nguyện Việt Nam trực sẵn sàng chiến đấu bằng súng phòng không 14,5mm trên xa thiết giáp do bộ đội tình nguyện Việt Nam tăng cường cho chiến trường Lào (1972). (Nguồn: Sách ảnh Quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào, NXB Thông tấn)

Đó là các chiến dịch Thượng Lào (13/4-18/5/1953), Trung Lào (21/12/1953-4/1954), Thượng Lào (29/1-13/2/1954), Hạ Lào-Đông Bắc Campuchia (31/1-4/1954), đã tiêu hao, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, mở rộng và củng cố các vùng giải phóng ở Thượng Lào, Trung Lào và Hạ Lào, làm thất bại âm mưu, thủ đoạn bình định của địch, âm mưu chia rẽ tình đoàn kết chiến đấu đặc biệt giữa quân đội và nhân dân hai nước Lào – Việt Nam.

Với vai trò nòng cốt, trong kháng chiến chống Mỹ, Quân tình nguyện Việt Nam tiếp tục chủ động phối hợp với lực lượng vũ trang Pathet Lào đẩy mạnh các hoạt động tác chiến ở vùng Trung và Hạ Lào, cùng thực hiện thắng lợi chiến dịch phản công đánh bại cuộc hành quân Lam Sơn 719 của Mỹ-ngụy tại khu vực Đường 9-Nam Lào.

Chiến trường Lào trở thành chiến trường phối hợp rất đắc lực với chiến trường chính, tạo nên những thắng lợi to lớn trong cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ba nước Việt Nam-Lào-Campuchia.

Những thắng lợi về quân sự của quân và dân hai nước trong các Chiến dịch Đường 9-Nam Lào (1971), Chiến dịch Cánh Đồng Chum-Mường Sủi (4/1972), Chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum-Xiêng Khoảng (11/1972)… làm tiêu hao, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, giành thắng lợi từng bước về quân sự, hỗ trợ cuộc đấu tranh chung của nhân dân nước bạn Lào, đánh bại chiến lược “Chiến tranh đặc biệt,” tiến tới đánh bại chiến lược “Chiến tranh đặc biệt tăng cường” của đế quốc Mỹ ở Lào; góp phần thúc đẩy tình thế, cùng với các đòn tiến công, nổi dậy của quân và dân Nam Bộ, Tây Nguyên trên chiến trường chính Việt Nam làm cho địch thất bại từng bước, tiến tới thất bại hoàn toàn.

Nhờ chuẩn bị chiến trường chu đáo, trong các chiến dịch tiến công trên chiến trường Lào những năm 1962-1972, lực lượng Quân tình nguyện, quân chủ lực của ta và bạn tham gia ngày càng lớn. Ngoài ra, hàng nghìn đội dân quân du kích và dân công đã tham gia phục vụ trên địa bàn chiến dịch. Chiến trường Lào trở thành chiến trường phối hợp rất đắc lực với chiến trường chính, tạo nên những thắng lợi to lớn trong cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ba nước Việt Nam-Lào-Campuchia.

Thực hiện nhiệm vụ quốc tế trên chiến trường Lào trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, cán bộ, chiến sỹ Quân tình nguyện và Chuyên gia Việt Nam đã chịu đựng vô vàn khó khăn, gian khổ, hy sinh, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao phó, lập nhiều chiến công trên chiến trường Lào.

Nhiều tập thể và cá nhân thuộc Quân tình nguyện và Chuyên gia Việt Nam đã được Đảng, Nhà nước Lào tặng thưởng nhiều phần thưởng cao quý. Cán bộ, chiến sỹ Quân tình nguyện và Chuyên gia Việt Nam được nhân dân các bộ tộc Lào tin yêu, coi như con em của bộ tộc mình. Những đóng góp to lớn đó đã góp phần quan trọng trong xây dựng, củng cố vững chắc tình đoàn kết đặc biệt giữa hai nước và hai quân đội Việt Nam-Lào./.

Một thập kỷ làm trợ lý cho Tổng Bí thư Kaysone Phomvihane

Hiền Hạnh

“Tôi phục vụ cách mạng Lào 43 năm, trong đó có 25 năm ở trên đất Lào và 18 năm làm công tác ở các cơ quan giúp Lào tại Hà Nội. 25 năm ở Lào, tôi có 6 năm bộ đội, 19 năm làm chuyên gia, cố vấn, trong đó có 10 năm làm trợ lý Tổng Bí thư Kaysone Phomvihane”…

Một ngày cuối tháng 10, trong căn nhà giản dị của mình, cựu chuyên gia Việt Nam tại Lào Nguyễn Văn Nghiệp đã bắt đầu những chia sẻ của ông như thế. Từ đó, dòng ký ức của người cựu chuyên gia cao cấp cứ thế ùa về, nối dài như những cống hiến và hy sinh lặng thầm của cuộc đời ông và hàng vạn người con ưu tú Việt Nam cho đất nước Lào anh em.

Mối duyên với đất nước Lào

Năm 1948, theo yêu cầu của Hoàng thân Souphanouvong, Bác Hồ giao cho đồng chí Phạm Văn Đồng lúc bấy giờ đại diện Trung ương Đảng, Chính phủ ở miền Nam Trung Bộ, tổ chức một đơn vị quân tình nguyện sang giúp Hạ Lào. Khi đó, chàng thanh niên Nguyễn Văn Nghiệp đang theo học văn hóa tại Trường Bổ túc văn hóa của cán bộ đảng viên ở Khu 5. Đây là ngôi trường do đồng chí Phạm Văn Đồng sáng lập và là hiệu trưởng danh dự.

“Khi tôi học được năm thứ nhất thì bác Đồng đến tuyển mộ 20 cán bộ, đảng viên có kinh nghiệm trong công tác đưa vào đơn vị tình nguyện đó để sang Lào. Trong số 300 học sinh, sinh viên nam nữ của trường có 50 người tình nguyện, trong đó có tôi.

Nhưng khi bác Đồng chọn 20 người thì tôi không trúng vì gầy yếu lắm, 48kg. Thế là tôi không được đi. Nhưng đến hôm chuẩn bị vào đơn vị nhận nhiệm vụ thì một trong 20 đồng chí được tuyển có mẹ ốm nặng nên đồng chí không đi, tôi xin đi thay. Từ đó tôi sang Lào, 19/8/1948.” Đơn vị của chuyên gia Nguyễn Văn Nghiệp cũng là đơn vị quân tình nguyện đầu tiên của Khu 5. Năm đó, ông 19 tuổi.

Mối duyên với đất nước triệu voi vẫn tiếp tục khi ông Nghiệp được cử ở lại để làm cố vấn cho Tỉnh ủy bí mật của tỉnh Champasak, hoạt động trong vùng đối phương kiểm soát cùng với hai đồng chí nữa.

Khi sang Lào, đầu tiên ông Nghiệp được phân công làm công tác cơ sở, nắm tình hình. Ở trong bộ đội 6 năm, từ năm 1948-1954, địa bàn công tác của ông chủ yếu ở tỉnh Champasak, Hạ Lào. Sau năm 1954, bộ đội Việt Nam rút về nước, Pathet Lào rút về Sầm Nưa, nhưng tại các tỉnh cách mạng Lào vẫn bố trí một Tỉnh ủy bí mật để hoạt động. Mối duyên với đất nước triệu voi vẫn tiếp tục khi ông Nghiệp được cử ở lại để làm cố vấn cho Tỉnh ủy bí mật của tỉnh Champasak, hoạt động trong vùng đối phương kiểm soát cùng với hai đồng chí nữa.

Thời kỳ là bộ đội tình nguyện, ông Nghiệp được giao phụ trách một đơn vị, vừa đánh địch vừa làm công tác xây dựng cơ sở. Lúc đầu, ở miền núi biên giới, ông và đồng đội cùng ăn, cùng ở với đồng bào dân tộc, học tiếng thiểu số, làm công tác vận động.

Chuyên gia tuyên huấn Việt Nam với cán bộ tuyên huấn Lào (1968). (Nguồn: Sách ảnh Quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào, NXB Thông tấn)
Chuyên gia tuyên huấn Việt Nam với cán bộ tuyên huấn Lào (1968). (Nguồn: Sách ảnh Quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào, NXB Thông tấn)

“Thời kỳ đó rất kham khổ, ăn uống thiếu thốn, thuốc men không có, sốt rét rừng… Chấy đầy người, rận khắp trong quần áo, mỗi lần thay quần áo chúng tôi phải nấu nước sôi đun lên để giặt’, ông Nghiệp nhớ lại. Một năm sau, đơn vị của ông vào sâu trong đất Lào.

Lúc bấy giờ không biết tiếng, không hiểu phong tục, không hiểu tình hình địa phương, lại ở vùng sau lưng địch, đơn vị của ông phải chia nhau thành các tổ, vừa học tiếng, học chữ Lào, vừa tìm hiểu phong tục tập quán, tình hình địa phương, sinh hoạt với dân để thực hiện ba cùng (cùng ăn, cùng ở, cùng nói tiếng dân tộc), qua đó vận động nhân dân.

“Thời kỳ đó đói khát phải ăn củ mài, ăn sung thay cơm, sốt rét rừng rất gian khổ. Nhưng mình bám dân nên được dân tin, được bạn tin,” (cựu chuyên gia Nguyễn Văn Nghiệp nhớ lại)

Thời điểm đó, ông Nghiệp đã linh hoạt, sáng tạo ra phương thức vận động theo quy trình: “bắt mối,” “xâu chuỗi,” “tìm nòng cốt.” “Tức là thông qua quan hệ, nói chuyện của mình với người dân, nhận thấy ai có cảm tình với cách mạng, có thể thuyết phục được thì “bắt mối” vào người đó, rồi từ người đó tìm hiểu thêm những người tiếp theo, gọi là “xâu chuỗi.”

Qua chuỗi đó, lại chọn ra những người nòng cốt tốt nhất để tổ chức họ vào các tổ chức Itxala bí mật, từ đó phát triển, xây dựng đội ngũ rộng hơn, không chỉ đội ngũ, mà còn xây dựng các đoàn thể, xây dựng lực lượng dân quân du kích và chính quyền,” ông Nghiệp cho biết. Từ đó, ông cùng Quân tình nguyện Việt Nam xây dựng các khu du kích, khu căn cứ, cùng ăn, cùng ở với nhân dân các bộ tộc Lào, cùng nhân dân sản xuất, đánh giặc giữ làng. “Thời kỳ đó đói khát phải ăn củ mài, ăn sung thay cơm, sốt rét rừng rất gian khổ. Nhưng mình bám dân nên được dân tin, được bạn tin,” cựu chuyên gia Nguyễn Văn Nghiệp nhớ lại.

Vị Tổng Bí thư với tác phong bình dị, gần dân

Những năm tháng không quên trong cuộc đời cống hiến cho cách mạng Lào của cựu chuyên gia Nguyễn Văn Nghiệp chính là giai đoạn ông vinh dự được làm trợ lý cho Tổng Bí thư Kaysone Phomvihane. Lật giở từng trang giấy đánh máy của cuốn sổ đã sờn cũ, ông Nghiệp cho biết, trong cuốn sổ ông cầm trên tay có lưu lại bản dịch Điếu văn của Tổng Bí thư Kaysone Phomvihane khi Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời.

Điếu văn dài 4-5 trang giấy, bên cạnh bày tỏ sự tiếc thương vô hạn, Tổng Bí thư Kaysone nói về đạo đức, tác phong tư tưởng của Bác; công lao của Bác đối với cách mạng thế giới, với cách mạng Việt Nam và cách mạng Lào.

Trong đó, những nội dung đề cập tới công lao của Người đối với cách mạng Lào chiếm khoảng một nửa Điếu văn: Từ việc Bác cho ý kiến vào những vấn đề lớn của cách mạng Lào như vấn đề thành lập Đảng, thành lập lực lượng vũ trang, xây dựng căn cứ địa, vấn đề cán bộ, đấu tranh để hòa hợp dân tộc…, đến những vấn đề sách lược, chiến lược.

Bí thư thứ nhất Kaysone Phomvihane thăm đơn vị quân tình nguyện Việt Nam ở Lào (1970). (Nguồn: Sách ảnh Quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào, NXB Thông tấn)
Bí thư thứ nhất Kaysone Phomvihane thăm đơn vị quân tình nguyện Việt Nam ở Lào (1970). (Nguồn: Sách ảnh Quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào, NXB Thông tấn)

Ông Nghiệp khẳng định, sinh thời, Tổng Bí thư Kaysone cực kỳ coi trong mối quan hệ Lào-Việt, thậm chí lấy tiêu chuẩn về quan hệ hai nước là một trong những tiêu chuẩn về cán bộ đảng viên của Lào. Theo đó, cán bộ, đảng viên của Lào phải coi việc gìn giữ, phát triển quan hệ Lào-Việt là một tiêu chuẩn phấn đấu.

Trong ấn tượng của ông Nghiệp và những cựu chuyên gia Việt Nam giúp việc cho Văn phòng Trung ương Đảng Lào thời kỳ đó, Tổng Bí thư Kaysone Phomvihane còn là người có tác phong quần chúng, vô cùng gần gũi với nhân dân.

Đối với cán bộ cấp dưới, Tổng Bí thư rất tin cậy, thương yêu, quan tâm đến họ từ sức khỏe tới cuộc sống hằng ngày. Đặc biệt, Tổng Bí thư là người hết lòng vì công việc. Tuy gia đình ở Vientinane cách đó 6km nhưng chủ yếu Tổng Bí thư Kaysone đều ở trong Văn phòng Trung ương để tiện làm việc, cuối tuần cũng ít khi về nhà mà thường đi xuống cơ sở, chọn tới thăm một hợp tác xã, một đơn vị hay bản nào đó để xem tình hình nhân dân ở đấy có vấn đề gì; việc thực hiện đường lối, chính sách của Trung ương tại địa phương được thực hiện như thế nào… Những chuyến đi đó đều có chuyên gia Nguyễn Văn Nghiệp đi cùng.

Làm việc với các chuyên gia Việt Nam, có nội dung gì cần thiết, Tổng Bí thư đều mời đến để được nghe giới thiệu chi tiết.

Đối với ông Nghiệp, tác phong quần chúng của Tổng Bí thư Kaysone còn thể hiện trong quá trình làm việc, chú ý lắng nghe ý kiến của anh em chuyên gia Việt Nam, kể cả về những vấn đề quan trọng như cán bộ, nhân sự.

“Cụ sống cũng rất bình dị. Khi đi cơ sở, thăm và trò chuyện với nhân dân, được mời nước, mời trầu, cụ sẽ dùng tự nhiên, tác phong rất gần gũi quần chúng nên nhân dân rất mến.”

Tổng Bí thư Kaysone còn rất chịu khó nghiên cứu, học tập. Làm việc với các chuyên gia Việt Nam, có nội dung gì cần thiết, Tổng Bí thư đều mời đến để được nghe giới thiệu chi tiết. Khi chuẩn bị đi công tác tại Liên Xô hay những nước khác, thấy ở đâu có vấn đề cần quan tâm, Tổng Bí thư thường đề nghị với Đại sứ nước đó giúp cử cho mình các chuyên gia để giới thiệu về những vấn đề ấy…

Chuyên gia Nguyễn Văn Nghiệp kể: “Tổng Bí thư coi tôi như người thân cận của ông, nhưng tôi tự ý thức rằng mình không thể lợi dụng tình cảm đó để vì lợi ích riêng của mình, nên tôi hết sức tránh chuyện đó. Có những việc rất nhỏ thôi, ví dụ mỗi lần Tổng Bí thư đi công tác, đều hỏi tôi có cần gì không? Tôi đều thưa Tổng Bí thư là không có gì cần. Nhưng có lần, trước một chuyến đi Liên Xô, Tổng Bí thư nói: “Thấy cậu mùa rét mà đi lại không có áo khoác. Lần này đi Liên Xô sẽ báo anh em mua cho cậu.” Tôi rất cảm động trước sự quan tâm chân tình của ông đối với một nhân viên như mình.”

Đồng chí Kaysone Phomvihane, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào với chuyên gia Việt Nam tại Hội nghị tổng kết công tác chuyên gia 10 năm giúp cách mạng Lào (Hà Nội, 12/1974). (Nguồn: Sách ảnh Quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào, NXB Thông tấn)
Đồng chí Kaysone Phomvihane, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào với chuyên gia Việt Nam tại Hội nghị tổng kết công tác chuyên gia 10 năm giúp cách mạng Lào (Hà Nội, 12/1974). (Nguồn: Sách ảnh Quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào, NXB Thông tấn)

Sau chuyến đi đó, Tổng Bí thư Kaysone mua cho ông một chiếc áo khoác dài. “Nhưng áo dài quá, về tôi phải sửa lại, gấp gấu áo lên mặc”, ông Nghiệp cười nói. Có những lần khác, Tổng Bí thư không hỏi, nhưng đi công tác về hay có chiếc áo sơ mi tặng ông, nhiều chiếc cho đến bây giờ ông Nghiệp vẫn mặc.

Buổi chiều, Tổng Bí thư đi dạo trong khuôn viên Văn phòng và hay gọi ông đi cùng, vừa để bàn công việc, vừa hỏi thăm về gia đình… Mỗi năm trước khi ông và các chuyên gia Việt Nam về nghỉ Tết, hoặc mùa hè khi Tổng Bí thư đi nước ngoài, thường trước khi đi bao giờ Tổng Bí thư Kaysone cũng gọi các anh em trong Tổ chuyên gia Việt Nam vào dùng chung bữa cơm. Khi đi về, Tổng Bí thư có quà cho từng người, đối đãi như người thân.

“Thời gian tôi làm trợ lý có cả tổ thư ký, nhưng trong những chuyên gia Việt Nam thì tôi là người thạo tiếng nhất, một số anh em nữa giúp việc, người chuyên về kinh tế, người về đối ngoại…, nhưng tôi thì giúp chung tất cả các mảng trực tiếp cho Tổng Bí thư. Những anh em còn lại không thạo tiếng Lào, khi làm đều phải qua phiên dịch. Từng người cũng đi sâu vào từng lĩnh vực, còn tôi thì bao quát toàn diện tất cả các mảng,” ông Nghiệp cho biết.

Nhiều năm công tác trên đất bạn, chuyên gia Nguyễn Văn Nghiệp có mối quan hệ rộng rãi với các cán bộ Lào từ Trung ương tới cơ sở.

Trước những hội nghị quan trọng, ông Nghiệp thường được Tổng Bí thư Kaysone giao sắp xếp, hệ thống lại những vấn đề, nội dung chủ yếu, cần thiết. Khi Tổng Bí thư đi nước ngoài, chính ông cũng là người chuẩn bị cho Tổng Bí thư những thông báo tới các nước, dự kiến nội dung phóng viên nước ngoài sẽ phỏng vấn; hoặc dự kiến những vấn đề cần giải đáp tại các kỳ họp Trung ương… Mỗi khi đi thực tế tại một tỉnh, Tổng Bí thư cũng hay hỏi ý kiến đánh giá của ông về thành tích, ưu khuyết điểm của địa phương đó, cần góp ý với địa phương vấn đề gì…

Nhiều năm công tác trên đất bạn, chuyên gia Nguyễn Văn Nghiệp có mối quan hệ rộng rãi với các cán bộ Lào từ Trung ương tới cơ sở. Nhân dân Lào có tinh thần yêu nước, Lào còn là một dân tộc theo đạo Phật nên người dân rất có lòng nhân từ, nhân văn và chất phác.

Ông Nghiệp chia sẻ, phẩm chất này có thể thấy không chỉ ở những người dân: “Họ rất chân chất, có gì nói nấy, và khi đã có niềm tin thì họ giữ niềm tin đó rất lâu, nếu mình làm mất niềm tin đó coi như xóa đi tất cả.”

Không chỉ Tổng Bí thư Kaysone, ông Nghiệp nhận được sự tin tưởng của nhiều đồng chí là cán bộ cao cấp thời kỳ đó như Bộ trưởng Ngoại giao, Ủy viên Bộ Chính trị phụ trách về kinh tế kế hoạch… Nhiều vấn đề khi làm việc với Tổng Bí thư nhưng chưa có điều kiện hoặc thời gian làm việc, bàn bạc cặn kẽ, các cán bộ thường chủ động đến tìm và đề nghị ông trình bày, làm rõ thêm trước Tổng Bí thư.

3 năm cuối trong thời kỳ làm trợ lý (từ năm 1988-1991), ông kiêm Tổ trưởng chuyên gia giúp Văn phòng Trung ương Đảng Lào và Văn phòng Hội đồng Bộ trưởng Lào.

Chuyên gia quân sự Việt Nam huấn luyện kỹ thuật sử dụng pháo 12 nòng cho đơn vị nữ pháo binh của bộ đội Pathet Lào chống đề quốc Mỹ (1972). (Nguồn: Sách ảnh Quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào, NXB Thông tấn)
Chuyên gia quân sự Việt Nam huấn luyện kỹ thuật sử dụng pháo 12 nòng cho đơn vị nữ pháo binh của bộ đội Pathet Lào chống đề quốc Mỹ (1972). (Nguồn: Sách ảnh Quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào, NXB Thông tấn)

Quá trình ở đất bạn, ông đi khắp cả nước Lào, đặc biệt vì làm trợ lý cho Tổng Bí thư, được Tổng Bí thư rất tin cậy, coi như cán bộ của Lào nên tận khi đã có quyết định về hưu, ông vẫn được giữ lại làm việc thêm hơn một năm. Năm 1990, ông Nghiệp nhận quyết định về hưu ở trong nước, nhưng Tổng Bí thư Kaysone có yêu cầu ông ở lại một thời gian để giúp việc triển khai Nghị quyết Đại hội của bạn. Tháng 9/1991, ông mới chính thức về nước, kết thúc hơn 25 năm công tác giúp đất nước Lào anh em.

25 năm ông xa nhà là ngần ấy năm bà Lê Thị Thu, vợ ông một mình chăm lo cho gia đình, nuôi dạy hai con. Một năm ông chỉ về thăm nhà được hai lần, căn nhà ở khu tập thể 79-81 Lý Nam Đế vắng bóng người đàn ông, mùa mưa nước ngập, mấy mẹ con lại cùng nhau xoay sở. Song cả cuộc đời cống hiến cho cách mạng Lào, ông đều được bà ủng hộ, làm hậu phương để ông vững tâm công tác.

Với những đóng góp của mình, chuyên gia Nguyễn Văn Nghiệp đã được tặng thưởng 9 Huân chương của cả Việt Nam và Lào, trong đó có những vinh dự như Huân chương Độc lập hạng Ba, Huân chương kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước hạng Nhất, Huân chương Lao động. Đặc biệt, ông còn được Nhà nước Lào trao tặng 3 Huân chương Tự do hạng Nhất, Huân chương Chiến thắng của Quân đội và Huân chương Hữu nghị./.

‘Tôi đề nghị được hy sinh’

Hiền Hạnh

Quan hệ hữu nghị đặc biệt giữa nhân dân hai nước Việt Nam-Lào luôn là biểu tượng của tình nghĩa ruột thịt thân thiết, trước sau như một, dù gian nan nguy hiểm cũng không thể chia cắt.

Hàng chục vạn cán bộ, chiến sỹ Quân tình nguyện và Chuyên gia quân sự Việt Nam đã không quản ngại gian khổ, chấp nhận mọi hy sinh để sát cánh cùng các lực lượng cách mạng Lào hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ quốc tế cao cả. Không chỉ là máu xương để lại, trong những cuộc chiến đấu chống kẻ thù chung, họ sẵn sàng nhường cho nhau sự sống, như những bản tráng ca vượt lên trên tất cả những điều cao đẹp.

Lời đề nghị đặc biệt

Chia sẻ ấn tượng về những tấm gương chiến đấu hy sinh của Quân tình nguyện Việt Nam tại Lào, Trung tướng Nguyễn Tiến Long, Phó Chủ tịch Trung ương Hội Hữu nghị Việt Nam-Lào, Phó Chủ tịch Hội truyền thống Quân tình nguyện và Chuyên gia quân sự Việt Nam giúp Lào, nguyên Bí thư Đảng ủy, nguyên Phó Tư lệnh Chính trị Quân khu 3 cho biết, lịch sử Quân tình nguyện Việt Nam có ghi lại một chuyến công tác và một lời đề nghị đặc biệt. Vào khoảng đầu năm 1948, một đoàn cán bộ cấp cao của cách mạng Lào đi từ Thái Lan qua Lào về Việt Nam gặp Bác Hồ.

Trong đoàn công tác có ba lãnh đạo cấp cao cùng Hoàng thân Souphanouvong và đồng chí Kaysone Phomvihane, khi đó là những cán bộ chủ chốt, cũng là những người chủ trì lãnh đạo cách mạng Lào. Ngoài ra còn có khoảng 3-4 đồng chí xứ ủy Ai Lao và 4 đảng viên của Đảng Cộng sản Miến Điện đi cùng.

Lịch sử cùng nhau đấu tranh của hai dân tộc đã có biết bao nhiêu lời đề nghị được cống hiến cho cách mạng, nhưng lời đề nghị này là vô giá và hết sức đặc biệt.

Đoàn đi từ Thái Lan vượt qua sông Mekong về đến địa phận của tỉnh Xieng Khouang thì không may gặp địch. Đoàn gồm toàn cán bộ cấp cao nên chỉ có súng ngắn, tổ bảo vệ dẫn đường lại chỉ có 4-5 người nên cuộc chiến đấu rất không cân sức. Tuy nhiên, đoàn đã khôn khéo vượt qua được vòng vây của địch và tiếp tục cuộc hành trình về phía Việt Nam. Không may trong cuộc chiến đấu bất ngờ đó, đồng chí đội trưởng đội bảo vệ đã bị thương nặng, gãy xương đùi. Núi cao nhất, vực sâu nhất còn đang chờ ở phía trước, địch nhiều nhất cũng đang chặn ở phía trước, hành trình của đoàn trở nên rất khó khăn, phải khiêng nhau và cõng nhau, mấy tiếng đồng hồ tiếp theo đi thêm không được bao nhiêu, chưa qua được tầm hỏa lực của địch.

Tới lúc dừng lại nghỉ, đoàn có rút kinh nghiệm chấn chỉnh đội hình. Đồng chí đội trưởng đội bảo vệ bị thương nặng có nói với đoàn rằng: Tôi bị thương nặng, không thể đi được, kẻ địch lại đang rình rập ở phía trước rất nguy hiểm. Nếu dùng người khiêng cáng tôi càng dễ gây nguy hiểm tính mạng cho cả đoàn. Sau khi phân tích tình hình, đồng chí có một đề nghị ngắn gọn chỉ gồm sáu chữ: “Tôi đề nghị được hy sinh.”

Bức trướng
Bức trướng “Lào-Việt đoàn kết’ do Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tặng Đại hội Quốc dân Lào (8/1950). (Nguồn: Sách ảnh Quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào, NXB Thông tấn)

Trung tướng Nguyễn Tiến Long cho rằng, lịch sử cùng nhau đấu tranh của hai dân tộc đã có biết bao nhiêu lời đề nghị được cống hiến cho cách mạng, nhưng lời đề nghị này là vô giá và hết sức đặc biệt. Đương nhiên, cả đoàn không ai chấp nhận đề nghị của đồng chí đó, bằng mọi cách vẫn vừa khiêng cáng, vừa bảo vệ các cán bộ đi cùng đoàn. Nhưng vì đường xa, mệt mỏi, đêm đó tất cả mọi người phải dừng lại nghỉ. Và trong khi mọi người ngủ thiếp đi, đồng chí đội trưởng đội bảo vệ đã tự thực hiện đúng sáu tiếng đề nghị của mình.

“Những tấm gương chiến đấu của quân tình nguyện Việt Nam ở trên đất Lào có hàng chục vạn lượt. Tinh thần chiến đấu, hy sinh dũng cảm của Quân tình nguyện và Chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Lào cũng thật đặc biệt, đặc biệt như những lời đề nghị của đồng chí đội trưởng đội bảo vệ ấy…” Trung tướng Nguyễn Tiến Long trầm giọng.

Lịch sử chỉ ghi lại rằng, người chiến sỹ quân tình nguyện ấy tên Phú, quê ở huyện Hương Điền, tỉnh Thừa Thiên-Huế. Đồng chí là người Việt Nam sống ở Lào và tham gia đội quân cách mạng quân tình nguyện, là thành viên của đường dây liên lạc cách mạng quốc tế Thái Lan-Lào-Việt Nam.

Sống trọn đời mình với rừng

Trung tá Bùi Minh Sơn sinh năm 1950, là lính Công binh của Quân tình nguyện Việt Nam tại Lào từ năm 1968. Cho đến bây giờ, ký ức về năm tháng cùng sống, chiến đấu với đồng đội trong những cánh rừng Lào vẫn in đậm trong trí nhớ của người cựu Quân tình nguyện đã hơn 70 tuổi. Đang học dở lớp 10, cậu thanh niên Bùi Minh Sơn tình nguyện lên đường nhập ngũ với biết bao bỡ ngỡ.

“Tinh thần chiến đấu, hy sinh dũng cảm của Quân tình nguyện và Chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Lào cũng thật đặc biệt, đặc biệt như những lời đề nghị của đồng chí đội trưởng đội bảo vệ ấy…” (Trung tướng Nguyễn Tiến Long trầm giọng.) 

“Xuất thân là học sinh Hà Nội, ở nhà tôi chưa bao giờ mang cái gì nặng quá 2kg và đi bộ quá 2km, nhưng khi chân ướt chân ráo vừa khoác bộ quân phục, lập tức nhận lệnh cùng đơn vị hành quân rèn luyện từ Hà Nội lên đến Sơn La, quãng đường bấy giờ khoảng 309km. Ngoài quân trang, ba lô, đồ đạc, mỗi người chúng tôi phải vác trên vai 11kg gạo và thực phẩm là cá khô. Đi được vài ngày ăn vơi số gạo và thực phẩm đi thì xe tiếp tế lại đuổi theo dồn vào đầy đủ. Khi lên tới Sơn La, trên vai mỗi người vẫn đủ 8kg gạo, 3kg cá khô,” ông Sơn nhớ lại.

Thời gian đầu, ông được phân về Quân khu Tây Bắc, sau đó biên chế về một tiểu đoàn công binh của Quân khu. Ở Lào có hai mùa rất rõ rệt, đó là mùa mưa và mùa khô. Địa hình của Lào chủ yếu lại là rừng núi, chỉ có một diện tích là đồng bằng.

“Mưa Lào trắng trời, từ ngày này sang ngày khác, tuần này sang tuần khác, tháng này sang tháng khác… Vì thế, điều kiện sinh hoạt, chiến đấu ở chiến trường cực kỳ gian khổ. Những đôi giày quân dụng rất bền, sản xuất cho người lính hành quân chiến đấu là bền nhất có thể, nhưng có những đôi chúng tôi chỉ đi một tuần đã bục, vì ngâm chân suối nước suốt ngày, chân lở loét. Cũng quãng đường ấy mùa khô chúng tôi đi mất 2 giờ đồng hồ, nhưng mùa mưa phải đi mất 5 tiếng, vì trơn, trượt ngã trên đường đèo dốc… Thậm chí có những đoạn đường vẫn đi vào mùa khô đã biến mất, trôi tuột xuống vực tự lúc nào theo những cơn mưa trắng xóa,” ông Sơn chia sẻ.

Quân Pathet Lào và bộ đội tình nguyện Việt Nam tiến vào giải phóng Xiengkhor, Sầm Nưa, Lào. (1950). (Nguồn: Sách ảnh Quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào, NXB Thông tấn)
Quân Pathet Lào và bộ đội tình nguyện Việt Nam tiến vào giải phóng Xiengkhor, Sầm Nưa, Lào. (1950). (Nguồn: Sách ảnh Quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào, NXB Thông tấn)

Chiến trường gian khổ, xa lạ, nhưng tình đồng đội đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau đã giúp những người lính vượt qua mọi khó khăn. Đồng đội ở cùng đơn vị ông Sơn có nhiều người dân tộc thiểu số đã ở rừng núi lâu ngày nên rất có kinh nghiệm, khu rừng như căn nhà của họ. Họ có thể đọc được những thông tin ở trong đó.

Nhiều khi đi hành quân xuyên rừng, chỉ cần một vệt bùn còn dính ở trên lá cây, anh em người dân tộc có thể biết được đó là con gì, đã đi qua cách đây khoảng bao lâu, nặng khoảng bao nhiêu cân, hầu như không bao giờ sai. Hoặc chỉ cần nghe tiếng tắc kè, nhìn lá cây, nhìn ụ mối, anh em có thể đoán được thời tiết trong khoảng mấy chục giờ tới sẽ như thế nào. Việc đọc thông tin ở rừng giúp ích rất nhiều cho “kỹ năng sống” của những người lính nơi rừng thiêng nước độc.

Không chỉ sát cánh cùng nhau trong cuộc sống, trong thực hiện nhiệm vụ, dưới điều kiện khó khăn, những người lính Công binh Quân tình nguyện Việt Nam người đi trước dạy người đi sau ngay tại thực địa, hướng dẫn nhau trong chính công việc hằng ngày.

“Những kiến thức, trải nghiệm ấy đến và được hình thành qua sống chết, giúp mình tồn tại để làm nhiệm vụ, chiến đấu, sống và cứu giúp người khác. Tôi vốn là dân thành phố, sống ở rừng một thời gian dài tự dưng cũng học tập các anh em người dân tộc, rồi dần dần cũng trở thành một phần của rừng núi cho đến bây giờ. Đến tuổi này tôi vẫn thích rừng núi hơn là biển cả. Về với rừng tôi cảm giác như được về nhà, không khí, hương thơm, thậm chí mùi lá mục có gì đó rất thân quen…,” ông Sơn bùi ngùi.

Không chỉ sát cánh cùng nhau trong cuộc sống, trong thực hiện nhiệm vụ, dưới điều kiện khó khăn, những người lính Công binh Quân tình nguyện Việt Nam người đi trước dạy người đi sau ngay tại thực địa, hướng dẫn nhau trong chính công việc hằng ngày, nỗ lực đảm bảo giao thông, sửa chữa đường sá, khắc phục bom mìn, vật cản…

Cán bộ Việt Nam-Lào tại công binh xưởng Hượi Khạ, Mường Xạ, Lào. (1949-1950). (Nguồn: Sách ảnh Quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào, NXB Thông tấn)
Cán bộ Việt Nam-Lào tại công binh xưởng Hượi Khạ, Mường Xạ, Lào. (1949-1950). (Nguồn: Sách ảnh Quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào, NXB Thông tấn)

Năm 1970, lúc bấy giờ ông Sơn cùng đơn vị đang ở cánh đồng Chum, Xiêng Khoảng. Một hôm, ông và một chiến sỹ là người dân tộc Mông được cử đi phá bom. Do bị ném ở độ cao thấp nên sau khi chạm đất, một phần của quả bom trồi hẳn lên mặt đường. Xác định là bom nổ chậm, ông Sơn cùng người Tiểu đội phó đi cùng quyết định phá. Lúc bấy giờ có hai cách: Áp thuốc nổ kích bom nổ ngay, hoặc vần quả bom xuống suối, xuống vực chờ tới lúc bom tự nổ. Phương án đánh nổ quả bom để đảm bảo an toàn nhanh chóng được ông và đồng đội lựa chọn.

Trung tá Sơn hồi tưởng: “Chúng tôi đã gói buộc xong một khối lượng thuốc nổ khoảng 3kg, tôi chuẩn bị bê thuốc nổ tiến đến để áp vào quả bom. Đây là những công việc hằng ngày, nên dù biết có nguy hiểm nhưng chúng tôi vẫn thực hiện hết sức bình thản như mọi lần. Đáng nhẽ hôm đó tôi đi. Nhưng không hiểu sao sau khi quan sát tình hình và suy nghĩ thoáng chốc, anh Tiểu đội phó lại bảo tôi để anh ấy thực hiện. Anh ôm gói thuốc nổ đi về phía quả bom, tôi ở cách đó khoảng 4-50m. Tôi ước thời gian chưa đủ đã nghe thấy tiếng nổ rất to, sau đó tôi mới chột dạ nghĩ hay bom đã nổ sớm.”

Khi chạy lên phía trước, đến nơi ông Sơn chỉ còn thấy một hố bom lớn, sâu hoắm và những mảnh quân phục rách tả tơi, vương trên mặt đất… Người đồng đội ấy đã nằm lại với rừng, vĩnh viễn không quay trở về…

Đảng, Nhà nước và nhân dân Lào đánh giá cao công lao to lớn, sự hy sinh cao cả của Quân tình nguyện và Chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Lào. (Hoàng thân Souphanouvong)

Những giọt nước mắt thầm lặng

Có những người lính của Việt Nam đã mãi mãi nằm lại, bồi đắp máu xương trên những mảnh đất Lào để mang lại tự do, hòa bình cho nhân dân hai nước; nhưng cũng có những người sau mấy chục năm đằng đẵng cuối cùng đã được quay về với quê hương, gia đình, dù rằng các anh cũng không còn nữa…

Hoàng thân Souphanouvong từng nói: Đảng, Nhà nước và nhân dân Lào đánh giá cao công lao to lớn, sự hy sinh cao cả của Quân tình nguyện và Chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Lào. Những người mẹ, người vợ Anh hùng Việt Nam đã gửi nhiều sư đoàn quân tình nguyện đến giúp Lào. Hàng chục nghìn chiến sỹ Việt Nam đã âm thầm hy sinh trên đất Lào, và những người vợ, người mẹ ấy vẫn âm thầm chịu đựng và ngày càng vun đắp tình hữu nghị đặc biệt.

Hơn 25 năm đi tìm hài cốt chồng, bà Lê Thị Nhung, vợ liệt sỹ Trần Đức Lợi không ngừng hy vọng có một ngày sẽ đưa được ông về với đất mẹ. Liệt sĩ Trần Đức Lợi quê ở huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định. Ông cùng bà Nhung xây dựng tổ ấm gia đình tại thị trấn Trâu Quỳ, Gia Lâm, thành phố Hà Nội và nhập ngũ năm 1954.

Sau khi đất nước hòa bình, ông được điều đến công tác tại đơn vị làm kinh tế Tây Bắc, rồi được cử đi học tại Trường đại học Nông nghiệp Hà Nội (nay là Học viện Nông nghiệp). Năm 1965, ông tái ngũ vào Sư đoàn 316 đi chiến đấu ở chiến trường Lào, sau đó hai năm, ông Lợi đã hy sinh tại chiến trường Houaphanh.

Sau khi chồng hy sinh, bà Nhung âm thầm, tần tảo nuôi dạy hai con gái khôn lớn, trưởng thành. Năm 1975, chiến tranh kết thúc, đất nước hòa bình, hầu hết các gia đình có người thân đi chiến đấu trên các chiến trường đã trở về quê sum họp gia đình, nhưng bà vẫn ngày đêm mong mỏi tin tức về phần mộ của chồng. Bà luôn đau đáu trăn trở, mong muốn tìm và đưa được hài cốt chồng về quê hương để nhang khói cho ông.

Lễ truy điệu và an táng 104 hài cốt liệt sỹ quân tình nguyện, chuyên gia Việt Nam hy sinh tại Lào tại Nghĩa trang liệt sỹ huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. (Ảnh: Anh Tuấn/TTXVN)
Lễ truy điệu và an táng 104 hài cốt liệt sỹ quân tình nguyện, chuyên gia Việt Nam hy sinh tại Lào tại Nghĩa trang liệt sỹ huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. (Ảnh: Anh Tuấn/TTXVN)

Lần theo những giấy tờ còn sót lại, bà Nhung tìm Giấy báo tử ghi phiên hiệu đơn vị của chồng để làm căn cứ, sau đó đến bộ phận lưu giữ di vật liệt sỹ Phòng chính sách Sư đoàn 316 – đơn vị của ông Lợi khi chiến đấu, để hỏi thăm và xin sơ đồ mộ chí, nơi chôn cất chồng bà ở Hủa Phăn, Lào.

Từ đó, mỗi năm hai lần, bà thu xếp việc nhà, dành dụm tiền tàu xe rồi khăn gói lên đường, lặn lội đi tìm phần mộ chồng tại các nghĩa trang liệt sỹ Quân tình nguyện giúp Lào ở vùng giáp biên giới hai nước Lào-Việt Nam. Bà đã đi khắp các tỉnh Lai Châu, Sơn La… và nghĩa trang liệt sỹ các tỉnh Nghệ An, Thanh Hóa, Điện Biên, nhưng vẫn không tìm thấy phần mộ liệt sỹ của ông Lợi…

“Mặc dù các chuyến đi gian truân vất vả, nhưng tôi vẫn đi bởi linh cảm mách bảo tôi sẽ tìm thấy hài cốt của chồng,” bà Nhung chia sẻ.

Đến các nghĩa trang liệt sỹ Quân tình nguyện ở trong nước vẫn không thấy phần mộ của ông, bà quyết định làm thủ tục đi sang Lào vào năm 1999. Trên đường đi, đến cửa khẩu Na Mèo (Thanh Hóa), bà được đồn biên phòng nơi đây giúp đỡ nơi ăn ở và có cả cơm nắm để ăn trên đường đi. Đồn biên phòng còn cử người dẫn đường đưa bà qua cửa khẩu Na Mèo đến tận Mường Mọc, Sầm Nưa, nơi có nghĩa trang liệt sỹ Quân tình nguyện Việt Nam.

“Mặc dù các chuyến đi gian truân vất vả, nhưng tôi vẫn đi bởi linh cảm mách bảo tôi sẽ tìm thấy hài cốt của chồng,” bà Nhung chia sẻ.

Tại nghĩa trang này, theo sơ đồ của đơn vị thì phần mộ của liệt sỹ Trần Đức Lợi và một số phần mộ khác đã bị đào bới, chỉ còn những hố sâu có dấu vết đã cất bốc hài cốt. Chính quyền địa phương bạn Lào cho biết, các hài cốt liệt sỹ ở nghĩa trang đã được cất bốc di chuyển đi nơi khác từ năm 1986.

“Nhìn khu vực nghĩa trang hoang vắng, tôi không khỏi xúc động, rồi cầm một nắm đất ở phần mộ chồng (theo sơ đồ mộ chí của đơn vị) mà khóc tức tưởi. Tôi cầu khấn với vong linh liệt sỹ: Anh linh thiêng hãy chỉ cho em biết, anh đang nằm ở đâu? Để hằng năm em đến thắp nén hương cho anh,” bà Nhung xúc động nhớ lại. Bà từng nằm mơ thấy ông về nói: “Đừng lo, anh sẽ về với em và các con. Anh ở đây không cô đơn đâu, vì còn có đồng chí, đồng đội. Anh đang ở Lào chưa về Việt Nam. Năm 2000 anh sẽ được về cùng với đồng đội.”

Bộ đội Biên phòng khuyên bà nên về nghĩa trang liệt sỹ Tông Khao ở Điện Biên, nhưng khi tới đó bà cũng không tìm được phần mộ của liệt sỹ Trần Đức Lợi. Không nản lòng, bà đến Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Thanh Hóa nhờ cán bộ phòng chính sách tìm kiếm. Bà Nhung được một cán bộ là Trung tá Phạm Minh Thư giúp đỡ, Trung tá Thư gọi điện báo cho Đội quy tập hài cốt liệt sỹ đang làm việc ở nước bạn Lào, kiểm tra lại một lần nữa.

Theo sơ đồ mộ chí, Đội trưởng Đội quy tập hài cốt liệt sỹ Hoàng Minh Thế cùng anh em trong đội quy tập trở lại nghĩa trang đào sâu khoảng một mét thì gặp hài cốt. Phía trên hài cốt có một bi đông nước khắc tên Trần Đức Lợi, quê Trâu Quỳ, Gia Lâm, Hà Nội.

Lễ truy điệu, an táng 23 hài cốt liệt sỹ quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam hy sinh trong các cuộc chiến tranh tại Lào, ngày 4/5/2018, tại Nghĩa trang liệt sỹ Đồng Tâm, huyện Bá Thước, tỉnh Thanh Hóa. (Nguồn: TTXVN)
Lễ truy điệu, an táng 23 hài cốt liệt sỹ quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam hy sinh trong các cuộc chiến tranh tại Lào, ngày 4/5/2018, tại Nghĩa trang liệt sỹ Đồng Tâm, huyện Bá Thước, tỉnh Thanh Hóa. (Nguồn: TTXVN)

Theo dấu vết, đội quy tập tìm thêm được bốn hài cốt liệt sỹ khác. Đội trưởng Hoàng Minh Thế vui mừng gọi điện ngay về Ban chính sách Tỉnh đội Thanh Hóa. Trung tá Phạm Minh Thư cũng lập tức gọi điện báo cho Ủy ban Nhân dân thị trấn Trâu Quỳ biết để thông báo với gia đình bà Nhung chuẩn bị đón hài cốt liệt sỹ Lợi.

Biết tin đã tìm thấy hài cốt, mọi người trong gia đình bà Nhung vô cùng xúc động, thu xếp đến ngay nghĩa trang liệt sỹ Hàm Rồng, tỉnh Thanh Hóa, để đón liệt sỹ Trần Đức Lợi về quê.

“Trước lúc lên đường, anh đã nói với tôi, anh nhất định sẽ về với em và các con. Hôm nay anh đã về thật rồi!”… Với người vợ liệt sỹ ấy, bà tâm niệm ông vẫn luôn bên cạnh mình, tiếp thêm sức mạnh để suốt hơn nửa cuộc đời mình, bà và những người mẹ, người vợ trên khắp đất nước này đã nén nỗi đau, thầm lặng hy sinh, dệt nên niềm tin vào cuộc sống và cả nỗi đợi chờ…/.

Nghĩa tình để lại muôn đời

Hiền Hạnh

“Tình hữu nghị Việt – Lào cao hơn núi, dài hơn sông, rộng hơn biển cả, sáng hơn trăng rằm, ngát hương thơm hơn đóa hoa nào thơm nhất”. (Hoàng thân Souphanouvong)

Trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, ngọn lửa chiến tranh khốc liệt không thể làm lu mờ mà càng soi rõ hơn nghĩa tình trong sáng, thủy chung nhân dân các bộ tộc Lào đã dành cho cán bộ, chiến sỹ Việt Nam.

Suốt thời gian liên minh chiến đấu, nhân dân Lào đã chăm sóc, chở che cho các chiến sỹ Quân tình nguyện khi tình thế cấp bách cũng như chăm sóc lúc ốm đau, yêu thương bộ đội Việt Nam như người thân ruột thịt của mình.

Một mối quan hệ hiếm có, vững bền, được gây dựng và thử thách qua 70 năm bằng xương máu chiến sỹ và nhân dân cách mạng, xứng đáng là nghĩa tình để lại đến muôn đời.

Ba cái tên, một cuộc đời

Trước khi tình nguyện sang tham gia chiến đấu và hoạt động giúp cách mạng Lào, cựu chuyên gia Nguyễn Văn Nghiệp chưa từng nghĩ đến, cuộc đời ông sẽ có thêm nhiều người thân thiết như máu mủ, những người mẹ, người anh, người chị đã chăm sóc, bảo vệ, tặng ông những tên gọi Lào thân thương, gắn bó trong suốt 25 năm sống trên đất bạn.

Ông Nguyễn Văn Nghiệp là chuyên gia cao cấp của Việt Nam, có nhiều năm công tác tại Văn phòng Trung ương Đảng Lào, là trợ lý thân cận, trực tiếp giúp việc cho Tổng Bí thư Kaysone Phomvihane trong hơn 10 năm. Chia sẻ về khoảng thời gian ở trên đất nước Triệu Voi, ông Nghiệp nhớ lại: “Người dân Lào chủ yếu theo đạo Phật nên đều có lòng bác ái, nhân từ, vị tha. Thấy bộ đội Việt Nam không biết tiếng nhưng vẫn sang làm việc, cùng ăn, cùng ở, cùng làm, cùng chiến đấu, cùng son sắt… thì người dân Lào rất thương, nên ốm đau được nhân dân Lào giúp đỡ, khó khăn được che chở, hạt gạo cắn đôi, cọng rau bẻ nửa, không phân biệt Lào-Việt mà đều nhận chúng tôi là con nuôi, em nuôi và đặt cho những cái tên Lào, vừa để dễ nhớ, dễ gọi, vừa thể hiện sự thân thương.”

Nhân dân Lào chào đón quân tình nguyện Việt Nam.
Nhân dân Lào chào đón quân tình nguyện Việt Nam.

Tên Lào đầu tiên mà ông Nghiệp được đặt là “Khăm Xỉ.” Hoàn cảnh được đặt cái tên đó đến bây giờ đối với ông vẫn là một kỷ niệm đẹp trong cuộc đời.

Trong một lần xuống thăm thủ trưởng bị ốm, đang được một gia đình người Lào chăm sóc, ông Nghiệp có gặp và trò chuyện với bà mẹ của gia đình đó. Hỏi thăm hoàn cảnh gia đình, thấy người con trai Việt Nam hiền lành, dễ mến, người mẹ Lào rất thương.

“Bà giới thiệu những người con của mình, trong đó ba người đã trưởng thành và có vợ có chồng, chỉ còn một cô con gái và một cậu con trai nhỏ hơn còn đi học. Bà ngỏ ý muốn giới thiệu tôi với cô con gái. Thời điểm đó, cô ấy đang học một lớp nữ công do một chị cán bộ nữ Việt Nam hướng dẫn. Bà nói: Con muốn gặp em thì đến đó. Sau đó, chúng tôi có gặp gỡ, cô ấy khá xinh và dễ thương, tên là Xỉ Mon. Song kỷ luật và công việc lúc đó không cho phép chúng tôi có tình cảm riêng tư.”

Hỏi thăm hoàn cảnh gia đình, thấy người con trai Việt Nam hiền lành, dễ mến, người mẹ Lào rất thương. 

Không có nhân duyên cùng cô gái, nhưng người mẹ Lào vẫn rất yêu quý và nhận ông Nghiệp làm con nuôi. Bà đặt tên cho ông là Khăm Xỉ, chữ “Khăm” tức là “vàng”, chữ “Xỉ” trong tên của cô Xỉ Mon. Cái tên mang hàm ý trân trọng, coi ông quý giá như vàng, như con ruột của bà. Suốt thời gian hoạt động ở đó, ông được gia đình người mẹ Lào chăm sóc, che chở.

“Ở đó được hơn một năm thì tôi chuyển công tác vào sâu trong vùng địch hậu nhưng vẫn giữ mối liên hệ với gia đình ấy. Sau này cô con gái lấy chồng, chúng tôi vẫn đến thăm nhau mỗi khi có dịp,” ông Nghiệp chia sẻ.

Ngoài tên khai sinh và tên “Khăm Xỉ”, ông Nghiệp còn có một kỷ niệm đặc biệt gắn với một tên gọi khác trong quãng đời hoạt động cách mạng của mình. Sau này trong kháng chiến chống Mỹ, ông Nghiệp chuyển công tác qua tỉnh Champasak, hoạt động trong Tỉnh ủy bí mật, phụ trách vùng phía Tây của Champasak ở bên kia sông. Đây cũng là vùng đằng sau lưng địch nên hoạt động của ông và đồng đội luôn phải hết sức cẩn trọng.

Ông kể lại: “Phía bạn bố trí một anh cũng là đảng viên để giúp đỡ tôi, vì anh đã lấy vợ đến 5-6 năm mà chưa có con nên được tổ chức chiếu cố hoàn cảnh gia đình, không đi tập kết.”

Suốt thời gian hoạt động tại địa bàn đó, vợ chồng anh chị đã giúp đỡ ông rất nhiều: Anh làm liên lạc, dẫn đường, đưa ông đi cơ sở bất kể ngày đêm. Chị lo việc cơm nước, tiếp tế, chăm sóc khi ốm đau.

“Ngày nào ở rừng thì đêm hai anh em mắc võng nằm cùng nhau. Hôm nào mưa anh lại dẫn tôi về ở nhà anh, nhưng suốt cả đêm hai vợ chồng không ngủ, thay nhau canh gác cho tôi, đề phòng có bọn xấu đến,” ông Nghiệp kể.

Bộ đội tình nguyện Việt Nam liên hoan chia tay nhân dân các bộ tộc Lào trước khi về nước (1961).
Bộ đội tình nguyện Việt Nam liên hoan chia tay nhân dân các bộ tộc Lào trước khi về nước (1961).

Sau khi biết được hoàn cảnh gia đình của ông: Mồ côi cha từ lúc 8 tuổi, ở nhà chỉ còn mình mẹ già, bản thân ông đi hoạt động cách mạng nhiều năm biền biệt, anh chị liền nhận ông làm em nuôi. Người cựu chuyên gia hồi tưởng: “Hôm đó làm lễ chỉ có một con gà, nải chuối và mấy quả trứng. Chúng tôi mời tổ chức làm chứng, làm lễ buộc chỉ cổ tay. Anh nói bây giờ anh sẽ đặt cho em cái tên mới, là Khăm Chăn.” “Chăn” có ý nghĩa là mặt trăng, Khăm Chăn có ý nghĩa như “ánh sáng của Mặt Trăng.”

Hai anh chị hết lòng chăm lo cho ông trong suốt hai năm ở đó. Ông còn nhớ mãi: “Hôm tôi phải chia tay hai anh chị để về đơn vị ở bên này sông, anh chị ra tiễn và hai vợ chồng đều khóc. Sau này do công tác nên tôi không có điều kiện trở lại thăm anh chị. Hòa bình lập lại, tôi có về Champasak và ghé lại đó đi tìm thăm anh chị nhưng cả hai đều đã qua đời. Đứng trước ngôi nhà đã bị phá, chỉ còn mấy cây dừa, tôi cứ đứng dưới cây dừa khấn vong linh của hai anh chị. Tôi không ngờ ngày chia tay cũng là lần cuối chúng tôi được gặp nhau.”

Người mẹ Lào dành sữa của con cứu bệnh binh Việt Nam

Trong những năm tháng sống và chiến đấu tại Lào, những người chiến sỹ quân tình nguyện Việt Nam đã được nhân dân nước bạn đùm bọc, bảo vệ để hoàn thành nhiệm vụ của mình. Rất nhiều câu chuyện cảm động trong những năm tháng ấy đã góp phần dệt nên tình đoàn kết thủy chung giữa nhân dân hai nước Việt-Lào.

Thời gian đã trôi qua rất lâu, nhưng mỗi khi nhắc đến bộ đội tình nguyện Việt Nam, mẹ Kanchia, bản Phon, huyện Lamam, tỉnh Sekong, Nam Lào, luôn dành một sự trân trọng đặc biệt. Chính mẹ là người cách đây gần 50 năm đã vượt qua những rào cản của kiêng kỵ, phong tục tập quán của dân tộc, chia sẻ dòng sữa của một người mẹ đang nuôi con của mình để cứu mạng một bộ đội tình nguyện Việt Nam bị sốt rét, kiệt sức trong những năm tháng chống Mỹ ác liệt.

Trong những năm tháng sống và chiến đấu tại Lào, những người chiến sỹ quân tình nguyện Việt Nam đã được nhân dân nước bạn đùm bọc, bảo vệ để hoàn thành nhiệm vụ của mình.

Bà Kanchia nguyên là giao liên đã từng chuyển lương thực cho cán bộ, Quân tình nguyện Việt Nam trong thời kỳ chống Pháp và chống Mỹ xâm lược tại tỉnh Sekong. Bà từng vận động chị em phụ nữ trợ giúp các đơn vị bộ đội Việt Nam đóng quân dọc núi Trường Sơn – địa bàn qua tỉnh Sekong.

Chồng bà là một cán bộ trong đơn vị Quân đội giải phóng Lào đóng quân ở sườn phía Tây núi Trường Sơn, làm nhiệm vụ giúp Quân đội Việt Nam bảo vệ tuyến đường hành quân, vận chuyển vũ khí, đạn dược, lương thực từ miền Bắc vào miền Nam. Sau này, chồng bà hy sinh trong khi làm nhiệm vụ.

Thời điểm đó, tuyến đường cơ giới miền Trung Việt Nam bị quân đội Sài Gòn chiếm nên phía Lào để lại vùng đất dọc Trường Sơn làm con đường chiến lược chi viện cho chiến trường miền Nam Việt Nam. Tuyến đường này xuyên qua núi rừng, khe suối, các bản làng của Lào. Nhằm chặn tuyến đường vận tải chiến lược của Việt Nam, giặc Mỹ ngày đêm cho máy bay B52 và các loại máy bay khác bắn phá, ném bom và rải chất độc hóa học… vào nhà dân và rừng núi xung quanh khiến gia đình bà Kanchia và dân bản phải liên tục di chuyển, lẩn trốn.

Phụ nữ bản Xốp Hùm đã hiến sữa của mình liên tục trong một tháng để cứu thương binh nặng (4/1968). 
Phụ nữ bản Xốp Hùm đã hiến sữa của mình liên tục trong một tháng để cứu thương binh nặng (4/1968). 

Vào giữa năm 1970, gia đình bà đến ở vùng Huoi Dua trong rừng Trường Sơn, gần đó là một đơn vị quân đội Việt Nam. Một hôm, người chỉ huy tên là Khiết, thủ trưởng của đơn vị đó đến nhà ngỏ ý muốn xin sữa của bà cho một chiến sỹ trong đơn vị đang bị ốm rất nặng. Trong phong tục của người Lào, sữa mẹ chính là dòng máu và chỉ có thể chia sẻ cho con, việc cho người khác là điều kiêng kỵ. Đặc biệt với bà khi đó là một người phụ nữ trẻ, điều này còn khó khăn hơn nhiều. Tuy nhiên, bà đã nói với ông Khiết đưa anh bộ đội đến, bà sẽ chia sữa nếu anh không ngại.

Ông Khiết có nói: “Giờ anh ấy quá yếu chắc không ngại đâu, chỉ sợ không còn sữa cho cháu bú.” Bà Kanchia nói: “Không sao, tôi sẽ nấu thêm cháo cho cháu ăn.”

Tôi chỉ nghĩ rằng, anh em Việt Nam đến ở làng mình, chiến đấu cho mình, hy sinh xương máu vì mình, nếu mình không chăm sóc sẽ như thế nào, còn gì là đoàn kết nữa.”(mẹ Kanchia, bản Phon, huyện Lamam, tỉnh Sekong, Nam Lào)

Sau đó, hai chiến sỹ Quân tình nguyện Việt Nam dìu đến một anh bộ đội ốm yếu, người gầy trơ xương, tay chân run rẩy. Bà Kanchia để hai anh bộ đội dìu anh bị ốm ngồi bú bầu vú của bà. Trong khoảng 5 ngày, sức khỏe của anh đã khá hơn rõ rệt. Sau đó trong một tháng, trước khi đi làm, bà vẫn chia sữa của con để giúp anh hồi phục. Từ những giọt sữa đầy tình nghĩa đó, anh bộ đội đã dần khỏe lại. Sau này, anh đến gặp bà Kanchia cảm ơn ân nhân và xin làm con nuôi.

Bà Kanchia từng chia sẻ: “Lúc đó tôi cũng chưa từng biết đất nước Việt Nam ở chỗ nào, nhưng khi thấy anh em Việt Nam sang giúp đất nước mình, tôi thương và yêu quý, nên tôi quyết định vượt qua mọi ái ngại và cho sữa. Cũng có người hỏi tôi tại sao lại cho sữa như vậy. Tôi chỉ nghĩ rằng, anh em Việt Nam đến ở làng mình, chiến đấu cho mình, hy sinh xương máu vì mình, nếu mình không chăm sóc sẽ như thế nào, còn gì là đoàn kết nữa.”

Khi cho sữa, bà chỉ nghĩ tới bộ đội tình nguyện Việt Nam cần được cứu sống và tình đoàn kết Lào-Việt Nam: “Lúc đó, máy bay địch bắn phá liên tục, vừa cho sữa tôi phải vừa trông chừng máy bay, cho thật nhanh còn xuống hầm trú ẩn.”

Bộ đội tình nguyện Việt Nam giã gạo giúp nhân dân Lào (1953).
Bộ đội tình nguyện Việt Nam giã gạo giúp nhân dân Lào (1953).

Bà Kanchia có 13 người con, nhưng 10 người bị chết vì bệnh tật, nghèo đói và ô nhiễm môi trường từ chất độc hóa học. Người con trai của bà Kanchia bú chung bầu sữa với anh bộ đội Việt Nam cũng đã bị ốm và qua đời. Năm 1975, đất nước Lào được giải phóng và Việt Nam cũng hoàn toàn độc lập, Quân đội Việt Nam trở về nước. Bà Kanchia cùng gia đình và dân bản xây dựng lại nhà và ổn định cuộc sống mới.

Nhường cơm sẻ áo, nhường sữa của con, thậm chí nhường cho nhau quyền được sống. Trong lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào có vô vàn những câu chuyện, hành động, nghĩa cử cao đẹp như thế.

Tri ân đối với nhân dân các bộ tộc Lào đã giúp đỡ, chở che Quân tình nguyện Việt Nam, Hội Hữu nghị Việt Nam-Lào đã phát động quyên góp trong các cấp Hội hỗ trợ bà Kanchia 400 triệu đồng xây căn nhà Hữu nghị vào dịp kỷ niệm 42 năm Quốc khánh nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào (1/12/1975-1/1/2/2017).

Nhường cơm sẻ áo, nhường sữa của con, thậm chí nhường cho nhau quyền được sống. Trong lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào có vô vàn những câu chuyện, hành động, nghĩa cử cao đẹp như thế. Liên minh chiến đấu với tinh thần gắn bó keo sơn trong những năm tháng gian khổ nhưng đầy vinh quang ấy đã góp phần giúp nhân dân và lực lượng vũ trang hai nước đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác mà đỉnh cao là đại thắng mùa Xuân năm 1975 tại Việt Nam và chiến thắng ngày 2/12/1975 tại Lào./.

Củng cố và phát triển nền tảng quan hệ đặc biệt

Hiền Hạnh

Sau năm 1975, quan hệ Việt Nam-Lào bước sang một trang hoàn toàn mới: Từ liên minh chiến đấu chung một chiến hào sang hợp tác toàn diện giữa hai quốc gia có độc lập chủ quyền. 

Bước vào thời kỳ mới – thời kỳ hòa bình, xây dựng đất nước, nhận thức sâu sắc về ý nghĩa và mối quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào, Đảng, Nhà nước và nhân dân hai nước vẫn luôn nỗ lực khẳng định tình đoàn kết đặc biệt, trước sau như một, hợp tác, ủng hộ, giúp đỡ lẫn nhau trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của mỗi nước.

Hợp tác đào tạo nguồn nhân lực cho Lào

Trường Hữu nghị T78 thành lập năm 1958, với 129 chiến sỹ Pathet Lào được chọn cử sang Việt Nam học văn hóa, mang phiên hiệu “T399.” Thực hiện tư tưởng chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Ban Bí thư Trung ương Đảng quyết định thành lập “Khu học xá miền núi Trung ương.” Khu học xá miền núi Trung ương đã trở thành trường đầu tiên ở Việt Nam dành cho lưu học sinh Lào học tiếng Việt và văn hóa các cấp. Đây là một quyết định đặc biệt với tầm chiến lược của hai Đảng, hai Nhà nước Việt Nam-Lào.

Dù trải qua những tên gọi khác nhau: Khu học xá miền núi Trung ương, Trường Bổ túc văn hóa miền núi Trung ương – Mật danh T78, Trường Bổ túc văn hóa Hữu nghị hoặc Trường Hữu nghị T78 như hiện nay, nhưng ở bất cứ giai đoạn nào, trường đều có một tên gọi đặc biệt và thân mật: “Trường Lào.”

Suốt chặng đường 60 năm hoạt động, Trường Hữu nghị T78 trải qua 9 lần di chuyển, đứng chân ở 15 xã, 7 huyện, 6 tỉnh, thành phố khác nhau. Hiện cơ sở của trường đặt tại xã Thọ Lộc, huyện Phúc Thọ, Hà Nội. Quá trình phát triển của trường là một chặng đường dài vượt qua biết bao thử thách về cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học và đội ngũ cán bộ, giáo viên, nhân viên luôn biến động, đời sống giáo viên và học viên, học sinh khó khăn…

Học sinh Phân hiệu I trường Văn hóa miền núi trung ương năm 1960. (Nguồn: Trường Hữu Nghị T78)
Học sinh Phân hiệu I trường Văn hóa miền núi trung ương năm 1960. (Nguồn: Trường Hữu Nghị T78)

Trường là nơi đầu tiên và cũng là trường cội nguồn của tất cả các trường văn hóa dành cho lưu học sinh Lào học tập tại nhiều tỉnh của Việt Nam.

Trường được giao nhiệm vụ đào tạo tiếng Việt cho các đối tượng lưu học sinh Lào; đào tạo bổ túc văn hóa cho học sinh dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc theo mô hình dân tộc nội trú và đào tạo trung học phổ thông cho học sinh dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc.

Cả hai đối tượng học sinh dân tộc thiểu số Việt Nam và lưu học sinh Lào có những nét tương đồng, gần gũi về văn hóa, ngôn ngữ và phong tục tập quán, thuận lợi cho việc bổ trợ, giúp đỡ nhau trong học tập, sinh hoạt.

Từ ngôi trường này, gần 30.000 lưu học sinh Lào qua các thế hệ đã trưởng thành, trở thành những cán bộ chủ chốt và đang nắm giữ những chức vụ quan trọng trong lãnh đạo Đảng, Nhà nước Lào.

Trường còn có chức năng nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực giáo dục; tham gia biên soạn giáo trình tiếng Việt cho người nước ngoài; hỗ trợ các đơn vị giáo dục trong nước và nước ngoài trong công tác dạy học tiếng Việt; tuyển sinh và quản lý học sinh, sinh viên; phát hiện và bồi dưỡng nhân tài.

Từ ngôi trường này, gần 30.000 lưu học sinh Lào qua các thế hệ đã trưởng thành, trở thành những cán bộ chủ chốt và đang nắm giữ những chức vụ quan trọng trong lãnh đạo Đảng, Nhà nước Lào; góp phần to lớn trong sự nghiệp đánh thắng thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, xây dựng và bảo vệ đất nước Lào anh em.

Cũng từ đây, gần 10.000 học sinh dân tộc thiểu số ở 22 tỉnh miền núi phía Bắc nước ta đã trưởng thành, trở thành nguồn nhân lực quan trọng đóng góp cho đất nước.

Thầy giáo Lê Phú Thắng, Hiệu trưởng Trường Hữu nghị T78 cho biết trước yêu cầu đổi mới giáo dục, đào tạo và đòi hỏi nâng cao chất lượng trong hợp tác đào tạo nguồn nhân lực của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, những năm gần đây, trường đã nỗ lực triển khai thực hiện nhiều giải pháp nhằm nâng cao chất lượng quản lý, giáo dục, đào tạo. Trong đó, hoạt động tổ chức đưa lưu học sinh Lào tham gia trải nghiệm thực tế, rèn luyện kỹ năng tiếng Việt, khả năng tự học… theo chương trình Homestay được nhà trường triển khai và nhận được nhiều đánh giá cao về kết quả chuyên môn.

Chương trình Homestay được triển khai từ năm học 2014-2015, là một trong số những hoạt động có kết quả tích cực, qua đó giúp các lưu học sinh hòa nhập cộng đồng, thuận lợi trong việc tìm hiểu thêm về phong tục, tập quán của người Việt Nam.

Tới nay, khoảng 600 lượt lưu học sinh đã tham gia chương trình qua các đợt với quy mô ngày càng được mở rộng trên địa bàn xã Thọ Lộc, huyện Phúc Thọ.

Từ 10 hộ dân, đến nay đã có hơn 100 hộ dân tham gia đón nhận lưu học sinh Lào về sinh sống, học tập. Chương trình đã tạo được hiệu ứng tích cực trong lưu học sinh và nhân dân địa phương. Riêng năm học 2018-2019, trường tổ chức cho lưu học sinh tham gia Homestay trong 25 ngày -thời điểm diễn ra nhiều lễ hội, hoạt động liên quan đến phong tục văn hóa của người dân Việt Nam. 166 lưu học sinh tham gia chương trình, sống ở 80 gia đình trong 4 thôn.

Chương trình đã góp phần nâng cao hiệu quả trong việc rèn luyện các kỹ năng tiếng Việt của lưu học sinh Lào, phát huy khả năng tự học của lưu học sinh, đồng thời góp phần gìn giữ, vun đắp tình hữu nghị đặc biệt Việt Nam-Lào.

(Nguồn: Trường Hữu Nghị T78)

Chị Daymone Viranon hiện là nghiên cứu sinh tại Học viện Hành chính quốc gia (Hà Nội), đồng thời là chuyên gia hiệu đính tin, bài cho Báo Quân đội nhân dân Điện tử tiếng Lào; ngoài ra, chị cũng cộng tác với Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV) trong hoạt động dịch thuật, biên tập.

Được cử sang Việt Nam học theo diện đào tạo cán bộ, song trước khi làm nghiên cứu sinh, chị cũng đã có một khoảng thời gian dài học tiếng Việt tại Trường Hữu nghị T78.

Đánh giá về chương trình Homestay của trường, chị Daymone cho biết, lưu học sinh Lào tham gia chương trình được trải nghiệm với những tình huống giao tiếp cụ thể.

Sự hòa nhập có tính chất toàn diện của lưu học sinh Lào với nhân dân địa phương đã góp phần củng cố, vun đắp tình hữu nghị, đoàn kết đặc biệt hai nước Việt Nam-Lào trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế của mỗi nước.

Việc ăn ở sinh hoạt và thường xuyên tiếp xúc với sự vật, sự việc giúp người học cải thiện kỹ năng nghe, nói, hiểu. Khi sống với nhân dân địa phương, lưu học sinh phải dùng tiếng Việt trong giao tiếp nên sẽ thúc đẩy sự chủ động, thường xuyên cố gắng tích lũy vốn từ, phát âm chính xác, đúng ngữ pháp, nói để người khác nghe, hiểu trong từng hoàn cảnh, từng trường hợp khác nhau.

Trong thời gian sinh sống tại nhà dân, vai trò chủ thể của lưu học sinh về tự học được phát huy tối đa, từ đó hình thành động cơ học tập đúng đắn hơn… Cùng sống, ăn ở với nhân dân là cơ hội thuận lợi để lưu học sinh rèn luyện khả năng tư duy, được nhân dân động viên, khích lệ, chia sẻ như người thân trong gia đình đồng thời, sự hòa nhập có tính chất toàn diện của lưu học sinh Lào trong cuộc sống, lao động, sự tương tác, giao lưu về văn hóa với nhân dân địa phương đã góp phần củng cố, vun đắp tình hữu nghị, đoàn kết đặc biệt hai nước Việt Nam-Lào trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế của mỗi nước.

Nhiều thành tựu chung trên các lĩnh vực

Không chỉ có sự gần gũi láng giềng, núi sông liền một dải, đã cùng sát cánh bên nhau trong chiến đấu chống kẻ thù xâm lược, hai dân tộc Việt Nam-Lào trong thời bình lại cùng chung chí hướng xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.

Ngày 18/7/1977, tại thủ đô Vientiane, Thủ tướng Việt Nam Phạm Văn Đồng và Thủ tướng Lào Kaysone Phomvihane ký Hiệp ước hữu nghị và hợp tác giữa hai nước Việt Nam-Lào. (Ảnh: Văn Bảo/TTXVN)
Ngày 18/7/1977, tại thủ đô Vientiane, Thủ tướng Việt Nam Phạm Văn Đồng và Thủ tướng Lào Kaysone Phomvihane ký Hiệp ước hữu nghị và hợp tác giữa hai nước Việt Nam-Lào. (Ảnh: Văn Bảo/TTXVN)

Ngày 18/7/1977 đánh dấu sự kiện có ý nghĩa trọng đại trong bước phát triển toàn diện của mối quan hệ hai nước Việt Nam-Lào: Hai nước đã ký Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác, trong đó nhấn mạnh: “Mối quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào, tình đoàn kết chiến đấu và tình hữu nghị không gì lay chuyển được giữa nhân dân Việt Nam và nhân dân Lào, tình đồng chí vĩ đại giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Nhân dân Cách mạng Lào được tôi luyện trong mấy chục năm đồng cam cộng khổ, cùng chiến đấu, cùng chiến thắng kẻ thù xâm lược, cùng hợp tác và giúp đỡ nhau xây dựng đất nước là một truyền thống quý báu, một sức mạnh vô địch của hai dân tộc, hai Đảng…”

Hiệp ước đã tạo tiền đề cho sự phối hợp, hỗ trợ lẫn nhau giữa hai nước, thể hiện thiết thực qua sự phát triển, tăng trưởng của các lĩnh vực đa dạng.

Những năm qua, các chương trình, dự án đầu tư của Việt Nam vào Lào có nhiều đóng góp cho phát triển kinh tế-xã hội của nước bạn và góp phần thúc đẩy quan hệ giữa hai nước ngày càng bền chặt.

Hiệp ước đã tạo tiền đề cho sự phối hợp, hỗ trợ lẫn nhau giữa hai nước, thể hiện thiết thực qua sự phát triển, tăng trưởng của các lĩnh vực đa dạng.

Ðến tháng 12/2018, Việt Nam có 409 dự án đầu tư sang Lào với tổng số vốn 4,1 tỷ USD; một số dự án lớn đã hoàn thành tiếp tục được khai thác, vận hành tốt, như thủy điện Xekaman 1, khách sạn Mường Thanh Vientiane, Crown Plaza; dự án của Tập đoàn Công nghiệp-Viễn thông Quân đội Viettel.

Việt Nam và Lào cũng đẩy mạnh triển khai các dự án kết nối về giao thông vận tải trong khuôn khổ hợp tác song phương và tiểu vùng; tiếp tục phối hợp tìm kiếm các nguồn vốn triển khai các dự án quan trọng mang tính chiến lược, trong đó có hai dự án lớn: Tuyến đường cao tốc Hà Nội-Vientiane dài khoảng 725km; tuyến đường sắt Vũng Áng-Tân Ấp-Mụ Giạ-Thà-khẹc-Vientiane…

Trong lĩnh vực giáo dục-đào tạo phát triển nguồn nhân lực, Việt Nam tiếp tục cử giáo viên sang dạy tiếng Việt cho cán bộ, học sinh, sinh viên tại 28 cơ sở giáo dục của Lào; hỗ trợ ngành giáo dục Lào xây dựng các công trình phục vụ dạy và học. Mỗi năm, Việt Nam dành cho Bạn hàng ngàn suất học bổng, liên tục có hàng chục ngàn lưu học sinh Lào học tập, sinh sống tại Việt Nam.

Ngày 22/9/2017, Thành đoàn Vientiane tổ chức cuộc giao lưu và thi tìm hiểu về “Mối quan hệ và hợp tác Lào-Việt Nam” cho học sinh các trường tiểu học và Trung học phổ thông trên địa bàn thủ đô Vientiane. (Nguồn: TTXVN)
Ngày 22/9/2017, Thành đoàn Vientiane tổ chức cuộc giao lưu và thi tìm hiểu về “Mối quan hệ và hợp tác Lào-Việt Nam” cho học sinh các trường tiểu học và Trung học phổ thông trên địa bàn thủ đô Vientiane. (Nguồn: TTXVN)

Tiếp nối truyền thống của các thế hệ cha anh, Đoàn thanh niên và thế hệ trẻ Việt Nam-Lào luôn tích cực vun đắp tình đoàn kết, hữu nghị đặc biệt giữa hai nước.

Tháng 5/2019, Trung ương Đoàn hai nước phối hợp tổ chức thành công tốt đẹp chương trình Gặp gỡ hữu nghị thanh niên Việt Nam-Lào. Đoàn đại biểu 60 thanh niên Lào do đồng chí A Lun Xay Sủn Nạ Lạt, Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng Nhân dân Cách mạng Lào, Bí thư Trung ương Đoàn Thanh niên Nhân dân Cách mạng Lào làm trưởng đoàn đã có những ngày làm việc hiệu quả và đầy ý nghĩa tại Việt Nam.

Tại các cuộc gặp gỡ, lãnh đạo Trung ương Đoàn hai nước đã thống nhất tiếp tục phối hợp trong công tác giáo dục truyền thống; hợp tác hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Đoàn của Lào tại Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam; hợp tác doanh nhân trẻ; hợp tác tình nguyện vì cộng đồng; giao lưu thiếu nhi hai nước; ủng hộ và hỗ trợ các tỉnh, thành đoàn giáp biên kết nghĩa, tăng cường hợp tác trên cơ sở lợi ích thiết thực, nhu cầu chính đáng của thanh niên hai nước …

Giao lưu nhân dân góp phần phát triển tình hữu nghị

Trong bối cảnh mới, Việt Nam chủ trương xác định ngoại giao văn hóa cùng với ngoại giao kinh tế và ngoại giao chính trị là ba trụ cột của nền ngoại giao toàn diện, hiện đại. Ba trụ cột này gắn bó, tác động lẫn nhau, góp phần thực hiện đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước.

Bên cạnh ngoại giao Nhà nước, ngoại giao Đảng, theo bà Nguyễn Phương Nga, Chủ tịch Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam (VUFO), ngoại giao nhân dân chính là sợi chỉ đỏ kết nối để tình hữu nghị thủy chung son sắt, hiếm có trên thế giới giữa Lào và Việt Nam được trường tồn mãi mãi cùng cả hai dân tộc, trải qua 70 năm tiếp theo và sẽ còn nhiều năm sau nữa trong suốt quá trình phát triển và tiến bộ của hai nước.

Ngoại giao nhân dân chính là sợi chỉ đỏ kết nối để tình hữu nghị thủy chung son sắt, hiếm có trên thế giới giữa Lào và Việt Nam được trường tồn mãi mãi cùng cả hai dân tộc.

Chủ tịch VUFO cho rằng, đối với tình hữu nghị Việt-Lào, trong lịch sử, ngoại giao nhân dân chính là nền tảng sâu sắc, vững chắc đưa quan hệ hai nước phát triển, là tiền đề cho quan hệ hợp tác rất tốt đẹp về chính trị, ngoại giao, an ninh, quốc phòng. Bên cạnh đó, thời gian tới hai nước cần thúc đẩy kết nối hai nền kinh tế; kết nối về thể chế, hạ tầng giao thông, năng lượng điện, viễn thông, du lịch; tháo gỡ vướng mắc để nâng cao hiệu quả hợp tác kinh tế, văn hóa, nhất là lĩnh vực công nghệ, để hai nước cùng phát triển những giá trị hợp tác mang lại lợi ích thiết thực, đưa mỗi nước tiến lên một cách vững mạnh.

Bên cạnh hợp tác kinh tế, bà Nguyễn Phương Nga nhấn mạnh cần chú trọng hợp tác về giáo dục, vừa tạo nên nền tảng tri thức, vừa góp phần củng cố nền tảng hữu nghị. Hằng năm, Việt Nam đào tạo hàng vạn du học sinh cho Lào. Chất lượng đào tạo cần được nâng cao hơn nữa để những du học sinh Lào tại Việt Nam thực sự trở thành nguồn nhân lực phục vụ tốt cho công cuộc xây dựng đất nước Lào, cũng là cầu nối để củng cố tình hữu nghị gắn bó keo sơn giữa hai nước.

Chương trình Giao lưu văn hóa, thể thao và du lịch vùng biên giới Việt Nam-Lào năm 2012, tối 18/8/2012, tại Hà Tĩnh. (Ảnh: Thanh Tùng/TTXVN)
Chương trình Giao lưu văn hóa, thể thao và du lịch vùng biên giới Việt Nam-Lào năm 2012, tối 18/8/2012, tại Hà Tĩnh. (Ảnh: Thanh Tùng/TTXVN)

Hai bên cần tích cực tuyên truyền về đất nước, con người, văn hóa, lịch sử … của cả Việt Nam và Lào để nhân dân hai nước cảm nhận được sâu sắc tình cảm hữu nghị truyền thống đặc biệt này.

Tuy nhiên, trong bối cảnh tình hình có nhiều sự biến động và thay đổi, bà Nguyễn Phương Nga nhấn mạnh, trong công tác tuyên truyền, cần làm tốt việc dự báo những vấn đề nhạy cảm có thể phát sinh.

“Hiện nay trào lưu dân tộc chủ nghĩa trên thế giới phát triển rất mạnh. Các nước đều rất đề cao lợi ích dân tộc. Ở đây, chúng ta không những có tình cảm mà còn phải có trách nhiệm phát triển mối quan hệ này, nên việc giải tỏa những dư luận không thật, giải quyết thấu đáo tất cả những vướng mắc trong quan hệ hai nước là hết sức cần thiết và cần có thông tin rộng rãi tới tất cả các tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ,” bà Nguyễn Phương Nga khẳng định.

Song song với việc tuyên truyền, Chủ tịch Liên hiệp các tổ chức hữu nghị cho rằng, cần tăng cường hơn nữa các hoạt động trao đổi văn hóa, nghệ thuật, giao lưu nhân dân, nhất là giao lưu giữa thanh niên và các doanh nghiệp hai nước; phát huy mạnh mẽ vai trò cầu nối quan trọng của Hội Hữu nghị Việt Nam-Lào và Ban Liên lạc toàn quốc Quân tình nguyện và Chuyên gia Việt Nam tại Lào.

“Cần tăng cường hơn nữa các hoạt động trao đổi văn hóa, nghệ thuật, giao lưu nhân dân, nhất là giao lưu giữa thanh niên và các doanh nghiệp hai nước.” (bà Nguyễn Phương Nga, Chủ tịch Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam – VUFO)

Để củng cố mối quan hệ truyền thống, hằng năm Việt Nam tổ chức rất nhiều sự kiện, hoạt động ở cả cấp Trung ương và địa phương nhằm tăng cường tình hữu nghị Việt-Lào, từ tổ chức giao lưu, thăm hỏi đến điện mừng và các hoạt động văn hóa như thi hùng biện bằng tiếng Việt, tổ chức vẽ tranh truyền thống, các chương trình ươm mầm hữu nghị…

Theo bà Nguyễn Phương Nga, thời gian tới Việt Nam cần làm tốt hơn những chương trình này, đặc biệt nên tổ chức thêm các chương trình như: “Theo chân Chủ tịch Souphanouvong,” “Theo dấu chân của Bác Hồ”… để đưa nhân dân Lào và Việt Nam, nhất là thế hệ trẻ, tìm tới các di tích lịch sử, ôn lại truyền thống của hai dân tộc, như vậy sẽ đẩy mạnh được tình hữu nghị giữa hai nước.

“Bên cạnh đó, Việt Nam cần tiếp tục tổ chức tốt các hoạt động cứu trợ nhân đạo như là chúng ta đã từng làm khi có sự cố thủy điện; hoạt động tri ân như xây dựng nhà tình nghĩa cho bà mẹ Kanchia …. Như vậy chúng ta sẽ thực sự đưa những hoạt động giao lưu, đoàn kết hữu nghị đi vào thực chất và hiệu quả hơn,” để tình hữu nghị Việt-Lào – tài sản thiêng liêng vô giá sẽ không ngừng được củng cố, phát huy mạnh mẽ và được tiếp tục vun đắp trên tất cả các lĩnh vực về chính trị, an ninh, kinh tế, xã hội, văn hóa…, để mãi mãi vững bền mối quan hệ gắn bó, keo sơn./.