Chính sách của châu Âu

ttxvnecb2-1508746362-98.jpg

Những nguyên nhân của cuộc khủng hoảng kinh tế và tài chính tác động tới Khu vực đồng euro năm 2008-2009 không được phân tích đúng. Hậu quả là, những giải pháp được thông qua đã tỏ ra phản tác dụng. Thâm hụt công ngày càng nghiêm trọng và những khác biệt giữa các nước Nam Âu và Bắc Âu ngày càng lớn.

Để thúc đẩy tăng trưởng một cách bền vững trong Liên minh châu Âu (EU), các nước thành viên cần thể hiện tinh thần đoàn kết nhiều hơn nữa, và cần xây dựng một chiến lược liên quan tới các hoạt động đầu tư công.

Khu vực đồng euro và EU đang chứng kiến cuộc khủng hoảng sâu sắc và nghiêm trọng nhất kể từ đầu tiến trình hội nhập châu Âu cách đây 60 năm. Một cuộc khủng hoảng về nhiều mặt: tăng trưởng thấp, thất nghiệp gia tăng, các làn sóng di cư lớn, chủ nghĩa hoài nghi châu Âu lan rộng, đe dọa khủng bố, khuynh hướng ly khai…

Châu Âu cũng trở nên mong manh do sự khác biệt gia tăng giữa các nền kinh tế thành viên: giữa đa số các nước đã đạt được những thành tựu và nâng cao năng lực cạnh tranh một cách rõ rệt, với những nước – đặc biệt ở Nam Âu – ngày càng bị bỏ xa và gặp khó khăn. Tất cả những yếu tố này đã làm gia tăng các phong trào chính trị rất đa dạng nhưng có chung những giải pháp mang màu sắc dân tộc chủ nghĩa và chống châu Âu, ít nhiều cứng rắn, đặc biệt phải kể đến giải pháp quay trở lại với các đồng tiền quốc gia.

Cần khởi động lại sáng kiến châu Âu, khắc phục những chia rẽ nội bộ và tư tưởng vị kỷ dân tộc, và đưa ra những giải pháp cụ thể và hiệu quả cho các nhu cầu thực tế của các công dân châu Âu

Trong những bối cảnh hiện tại, chỉ bảo vệ những gì tồn tại là không đủ. Nói cách khác, cần khởi động lại sáng kiến châu Âu, khắc phục những chia rẽ nội bộ và tư tưởng vị kỷ dân tộc, và đưa ra những giải pháp cụ thể và hiệu quả cho các nhu cầu thực tế của các công dân châu Âu.

Trước tiên, cần phải từ bỏ những chính sách sai lầm được đưa ra trong những năm gần đây. Chúng ta đã làm điều này, nhưng một cách manh mún và không đầy đủ. Kinh tế đang phục hồi là một tín hiệu tích cực, nhưng sự năng động của nó còn quá khiêm tốn, nên không cho phép bù đắp những chi phí kinh tế và xã hội tăng cao trong những năm dài khủng hoảng, hay đối phó với tình trạng vay nợ nhiều đang trở thành nét đặc trưng cho Khu vực đồng euro và đặc biệt các nước Nam Âu. Giờ đây, cần khắc phục những thiếu sót: Các chính sách cung cầu và đầu tư kết nối trong một dự án chiến lược tập trung vào kinh tế và tăng trưởng của châu Âu.

Song song và một cách bổ sung, tiến trình hội nhập châu Âu cần được khởi động lại. Liên minh kinh tế và tiền tệ (EMU) đã được củng cố trong những năm gần đây, nhưng còn xa mới đi tới chỗ hoàn chỉnh. Tiến trình hội nhập đã phần nào nửa vời, và cần phải được khởi động lại thông qua những cải cách sâu sắc, nếu không đồng tiền châu Âu có nguy cơ không thể đứng vững trong trung hạn. Việc thiết lập một năng lực thuế – dù hạn chế – của Khu vực đồng euro, và việc hoàn thiện liên minh ngân hàng là hai bước chuyển bắt buộc về căn bản để tiến tới một sự hội nhập kinh tế tốt hơn.

Người ta có thể hy vọng rằng những thay đổi như vậy bắt đầu được thực hiện vào cuối năm nay, sau chu kỳ bầu cử đang diễn ra, nếu như chu kỳ này kết thúc theo hướng có lợi cho các lực lượng thân châu Âu. Điều này hẳn không dễ dàng trong bối cảnh chủ nghĩa hoài nghi châu Âu đang gia tăng. Nhưng một giải pháp khác đương nhiên dẫn đến sự tan rã châu Âu.

Đồng tiền mệnh giá 500 euro. (Nguồn: AFP/TTXVN)
Đồng tiền mệnh giá 500 euro. (Nguồn: AFP/TTXVN)

Khủng hoảng đồng euro: những sai lầm trong “chẩn đoán” và “chữa trị”

Tất nhiên, nguyên nhân của cuộc khủng hoảng trầm trọng đồng euro và cuộc khủng hoảng châu Âu, kể từ năm 2009, gắn với một cuộc khủng hoảng toàn diện hơn, nhưng chủ yếu nó bắt nguồn từ sự lựa chọn một giải pháp phản tác dụng – các chính sách khắc khổ – xuất phát từ một kết luận sai lầm đổ lỗi cho sự thiếu trách nhiệm của các nước vay nợ. Hậu quả là, các chính sách vận hành không hiệu quả dù chúng đã được thực hiện ở châu Âu, dựa trên những biện pháp thắt chặt ngân sách và tái cấu trúc nguồn cung, nhằm tạo thuận lợi cho sự cạnh tranh và việc mở cửa các thị trường đang ngày càng nhiều lên.

Kể từ đầu cuộc khủng hoảng nợ, cách lý giải áp đảo mang tính chính trị đã cáo buộc tình trạng nợ công quá mức của một loạt nước Nam Âu “không tuân thủ nguyên tắc” – gồm Bồ Đào Nha, Hy Lạp, Tây Ban Nha – họ dường như tài trợ hào phóng cho hình thức nhà nước bảo trợ và quá trình tái phân phối nội bộ của họ.

Trên thực tế, và trừ trường hợp của Hy Lạp, cuộc khủng hoảng còn có những nguyên nhân khác: Trước hết phải kể đến những khoản nợ cá nhân quá mức, tích tụ ngay từ đầu thế kỷ này tại một loạt nước ngoại vi của Khu vực đồng euro. Những khoản nợ này phần lớn được tài trợ bởi các ngân hàng của các nước “lớn” thuộc Trung Âu. Tình trạng nợ quá mức có thể do phương thức hoạt động của Khu vực đồng euro trong những năm trước khủng hoảng – được đặc thù bởi các mức lãi suất thấp, và các hoạt động tài trợ đa dạng của các ngân hàng ở các nước lớn (trước tiên là Đức và Pháp). Điều này dẫn tới tình trạng mất cân bằng nặng nề đối với nền kinh tế vĩ mô trong Khu vực đồng euro và những khoản thâm hụt cán cân vãng lai tăng cao.

Kết quả là có sự khác biệt về Tổng sản phẩm quốc nội (GDP), cùng với sự phân cực các động lực tăng trưởng trong các nước thuộc Khu vực đồng euro, giai đoạn trước khủng hoảng. Trong khi Khu vực đồng euro nói chung thể hiện một sự cân bằng tích cực về thanh toán ngoại thương, thì các khoản thanh toán vãng lai và các vị thế cạnh tranh của mỗi nước thành viên lại có sự khác biệt mạnh mẽ, và ngày càng gia tăng. Các nước Bắc Âu (đặc biệt là Đức) có thể tích lũy dư thừa, còn các nước Nam Âu bị thâm hụt nặng nề.

Đình công toàn quốc phản đối cắt giảm chi tiêu tại Athens, Hy Lạp. (Nguồn: EPA/TTXVN)
Đình công toàn quốc phản đối cắt giảm chi tiêu tại Athens, Hy Lạp. (Nguồn: EPA/TTXVN)

Thâm hụt ngân sách công không phải là nguyên nhân, mà là hậu quả của khủng hoảng

Trong nhiều năm, các thể chế châu Âu cũng như các nhà chức trách của mỗi nước thành viên EU đã không chú ý nhiều tới những mất cân đối ngày càng gia tăng này. Giả thuyết nổi bật là những thay đổi về vị thế cạnh tranh của các nước không nhất thiết phải bị nhìn nhận như là tiêu cực đối với liên minh tiền tệ.

Tình trạng mất cân bằng lớn kéo dài của Khu vực đồng euro đã được xem xét và khắc phục với những thay đổi mạnh mẽ bối cảnh gây ra tình trạng mất cân bằng đó. Chính cú sốc của cuộc khủng hoảng năm 2008-2009 đã làm suy yếu các nền tảng vốn mong manh mà nhờ nó Liên minh tiền tệ đã đạt được những cân bằng.

Do vậy, một sự gián đoạn gần như đột ngột các khoản tài trợ tư nhân cho các tình trạng mất cân bằng đã buộc các ngân hàng trung ương phải thay thế hệ thống ngân hàng để tài trợ các khoản thâm hụt cán cân vãng lai và các dòng lưu chuyển vốn.

Sự can thiệp ồ ạt này đã thành công, nhưng nó làm trầm trọng thêm tình trạng thâm hụt công ở phần lớn các nước. Chính những nước nợ nhiều nhất, có tình trạng mất cân bằng cán cân vãng lai nghiêm trọng nhất lại phải chịu những khoảng cách chênh lệch lãi suất lớn nhất giữa trái phiếu so với lãi suất của Đức. Khi đó, hệ thống đồng euro cần dự báo được nguy cơ sụp đổ của các hệ thống ngân hàng, thậm chí của các nhà nước.

Tình trạng thâm hụt ngân sách trầm trọng là một hệ quả, chứ không phải là nguyên nhân của cuộc khủng hoảng Khu vực đồng euro

Do vậy, tình trạng thâm hụt ngân sách trầm trọng là một hệ quả, chứ không phải là nguyên nhân của cuộc khủng hoảng Khu vực đồng euro. Bất chấp những quy định hiện hành của Hiệp ước ổn định và tăng trưởng, các biện pháp khắc khổ ngân sách đã được đưa ra gần như ngay tức thì, mà không có sự phân biệt giữa Hy Lạp (nơi chính sách thuế được thả lỏng nhiều năm trước khi xảy ra khủng hoảng) và Tây Ban Nha hay Ireland (những nước không có chính sách thuế hà khắc và tình trạng khó khăn của họ bắt nguồn từ những khoản nợ tư nhân quá mức).

Sự phục hồi ở châu Âu, vốn đã yếu ớt, lại chịu tác động nặng nề, khiến cho những hậu quả tiêu cực lan rộng ra cả Tây Ban Nha và Italy. Cuộc khủng hoảng nợ công và cuộc khủng hoảng ngân hàng do vậy có mối liên quan với nhau, tác động qua lại trong một vòng tròn luẩn quẩn ngày càng phức tạp và khó giải quyết.

Trước tình trạng này, các chính phủ của các nước châu Âu, dưới sự chỉ đạo của cặp đôi Merkel-Sarkozy, đã lựa chọn giải pháp né tránh sự đối đầu nảy sinh từ các cuộc tranh luận nội bộ tại mỗi nước. Họ chấp nhận cách giải thích sai lầm mà theo đó sự bất ổn về tài chính công của các nước châu Âu ngoại vi là nguồn gốc gây ra khủng hoảng, và giải pháp duy nhất là áp dụng biện pháp khắc khổ. Đồng thời, việc quản lý khủng hoảng được tổ chức theo một trình tự cứng nhắc giữa các nước: Các nước Bắc Âu hoàn toàn tác động tới sự điều chỉnh đối với các nước thâm hụt ngân sách.

Bảng tỷ giá giữa đồng đôla Mỹ (trái) và đồng euro so với đồng bảng Anh tại một cửa hàng ngoại hối ở London (Anh). (Nguồn: EPA/TTXVN)
Bảng tỷ giá giữa đồng đôla Mỹ (trái) và đồng euro so với đồng bảng Anh tại một cửa hàng ngoại hối ở London (Anh). (Nguồn: EPA/TTXVN)

Các công cụ dự báo và sự quản trị mới

Phương thức quản trị đã nhanh chóng cho thấy những điểm yếu và những giới hạn – đặc biệt trên ba khía cạnh. Trước tiên, sự thất bại của các tiến trình giám sát: Hiệp ước ổn định và tăng trưởng đã tỏ ra là không có khả năng đảm bảo kỷ luật ngân sách của các nước thành viên, cũng như các định hướng chính sách kinh tế lớn đã không ngăn chặn được sự khác biệt giữa các nước thành viên. Tiếp đến là sự thiếu vắng cơ chế giải quyết khủng hoảng: các sự kiện đã chỉ ra rằng khu vực euro hoàn toàn không sẵn sàng đối đầu với một cuộc khủng hoảng nợ công của một trong số các nước thành viên.

Cuối cùng, người ta nhận thấy điểm yếu của một số quan niệm mang tính lý thuyết: sự đe dọa đối với tính ổn định của Khu vực đồng euro không chỉ xuất phát từ hành vi của các chính phủ, và do vậy, việc kiểm soát các rủi ro tài chính không thể được giải quyết chỉ thông qua việc giám sát ngân sách nhà nước.

Kinh nghiệm đáng thất vọng của thập kỷ đầu tiên của liên minh tiền tệ và cuộc khủng hoảng sau đó đã dẫn tới những thay đổi có ý nghĩa trong quản trị, nhằm tránh việc thiếu các công cụ giám sát. Do vậy, các thể chế và thủ tục của EU trong hợp tác kinh tế đã được xem xét lại và củng cố, trước hết vào năm 2011 (thông qua Chương trình giám sát 6 điểm “six-pack”), rồi vào năm 2012 (thông qua Cơ chế ổn định châu Âu – MES), cuối cùng vào năm 2013 (thông qua Chương trình giám sát 2 điểm “two-pack”, và Hiệp ước ổn định, phối hợp và quản trị – TSCG).

Trong cuộc khủng hoảng 2008-2009, phương thức quản trị mới nhằm giải quyết tình trạng nợ công, cũng như những vấn đề về tình trạng mất cân bằng kinh tế vĩ mô trong Khu vực đồng euro, đồng thời mở rộng và bổ sung các nguyên tắc giám sát thuế, thông qua một cơ chế giám sát kinh tế vĩ mô, và tập trung vào các điều kiện cạnh tranh nội tại và bên ngoài các nước, hơn là tập trung vào tình trạng thâm hụt ngân sách của họ.

Những cải cách này là một sự đổi mới quan trọng trong việc phòng ngừa và khắc phục tình trạng mất cân bằng tài chính, nhưng vẫn chưa đủ để đối đầu với một cuộc khủng hoảng đang diễn ra, hay để khôi phục tăng trưởng trong Khu vực đồng euro.

Trong năm 2016, những sự kiện xảy ra với Khu vực đồng euro đã chỉ ra rằng một cơ chế quản lý khủng hoảng hiệu quả cần được bổ sung vào các cơ chế giám sát và phòng ngừa

Trong khuôn khổ của những khái niệm trước đây về các chính sách thuế được khôi phục bởi Hiệp ước ổn định và tăng trưởng, cải cách nhằm mục đích phòng ngừa những mất cân bằng của các nền tài chính công. Tất cả các nước cần nhất trí về các mục tiêu trung hạn – cho tới khi các mục tiêu này đạt được, giữ mức tăng chi tiêu công thấp hơn mức tăng trưởng GDP.

Một cải cách khác của Hiệp ước ổn định và tăng trưởng nhằm điều chỉnh những mất cân bằng tài chính công. Khái niệm tổng dự trữ nợ quốc gia – chiếm tới 60% GDP đối với tất cả các nước – đã được sử dụng để đánh giá tình trạng thâm hụt cán cân vãng lai. Các biện pháp trừng phạt nghiêm khắc hơn, và đa dạng hơn, thời gian áp dụng cũng nhanh hơn so với trước đây. Đồng thời, hiệp ước ổn định và tăng trưởng cũng trở nên uyển chuyển hơn trong giai đoạn khủng hoảng. Trước sự suy thoái tăng trưởng, các nước thành viên liên quan đã được gia hạn nhiều hơn để phục hồi nếu như họ có những lựa chọn cơ cấu cần thiết. Chẳng hạn, như trong năm 2012 với Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, và Hy Lạp, và trong năm 2013 với Pháp, Hà Lan, Bồ Đào Nha và Slovenia.

Trong năm 2016, những sự kiện xảy ra với Khu vực đồng euro đã chỉ ra rằng một cơ chế quản lý khủng hoảng hiệu quả cần được bổ sung vào các cơ chế giám sát và phòng ngừa. Do vậy, một cơ chế ổn định và giải quyết khủng hoảng đã được xây dựng thông qua việc điều chỉnh Hiệp ước Lisbon, cùng với một năng lực tài chính 500 tỷ euro, thay thế cho công cụ trước đây (Quỹ ổn định tài chính châu Âu) – được xây dựng hồi tháng 5/2020 nhằm cấp tín dụng cho các thành viên của Khu vực đồng euro gặp khó khăn.

Cuối cùng, một sự đổi mới quan trọng: chương trình “bán niên châu Âu” – đã ra đời vào năm 2011 – được áp dụng cho 6 tháng đầu mỗi năm và được ký kết vào tháng 6 hàng năm. Trước khi được chuyển thành các chuẩn mực quốc gia, các chương trình của các nước thành viên đã được Eurogroup (nhóm các bộ trưởng tài chính các nước thuộc Khu vực đồng euro), Ủy ban châu Âu và Hội đồng châu Âu đánh giá và thông qua hoặc đưa vào trong những hồ sơ về ngân sách quốc gia.

Kiểm đồng 20 euro tại một điểm giao dịch hối đoái. (Nguồn: THX/TTXVN)
Kiểm đồng 20 euro tại một điểm giao dịch hối đoái. (Nguồn: THX/TTXVN)

Cuộc suy thoái thứ hai: đồng euro an toàn, nhưng nền kinh tế bị ảnh hưởng

Cần phải đề cập tới những thay đổi trong phương thức quản trị châu Âu. Người ta có thể hình dung việc quản trị châu Âu như một hộp công cụ, có những phần mới, có những phần được sửa đổi, và trên giấy tờ, dường như quá hữu ích để tăng cường sự gắn kết kinh tế và sự phối hợp các chính sách kinh tế trong Khu vực đồng euro. Nhưng người ta có thể sử dụng công cụ này theo những cách thức và phương hướng khác nhau, với những kết quả cũng khác nhau. Các nhà kinh tế học nói về một mô hình được đặc trưng bởi những cân đối tài chính, mang lại nhiều giải pháp ở cấp độ kinh tế vĩ mô. Nhưng cách thức áp dụng những biện pháp này đã khiến Khu vực đồng euro rơi vào một cuộc suy thoái nặng nề thứ hai.

Cách thức quản trị mới nhằm ngăn ngừa các cuộc khủng hoảng trong tương lai, và thiết lập các công cụ, các cơ chế, các điều kiện hạn chế sự khác biệt nghiêm trọng giữa các nền kinh tế của Khu vực đồng euro. Đặc biệt, với việc đưa ra các cải cách cơ cấu được giả định tương thích với sự cân bằng tài chính công trong tương lai và sự vận hành bình thường của nền kinh tế, người ta muốn tránh những cách hành xử thiếu minh bạch của những nước hành động đơn phương.

Nhưng những quy tắc mới đã được sử dụng như những giải pháp cho những vấn đề nảy sinh từ cuộc khủng hoảng tài chính, chứ không còn như các công cụ phòng ngừa. Và chúng không mang lại nhiều thành công, như diễn biến của cuộc khủng hoảng đã chỉ ra.

ECB đã khiến cho các ngân hàng tin rằng sự sống sót của đồng tiền chung châu Âu không còn là vấn đề nữa, và không nước nào phải rời khỏi Khu vực đồng euro

Nửa cuối năm 2011 và nửa đầu năm 2012 đặc biệt sôi động. Các khoản tiền bảo hiểm rủi ro liên quan tới trái phiếu chính phủ của Tây Ban Nha và Italy đã tăng cao và đạt những mức kỷ lục. Đồng thời, các nguy cơ bất ổn của các ngân hàng và các hệ thống ngân hàng nhiều nước ngày càng gia tăng.

Do vậy, các biện pháp mới tỏ ra tương đối không hiệu quả vì hai lý do căn bản. Chúng không cho phép tháo gỡ nút thắt của cuộc khủng hoảng: Mối quan hệ giữa các khoản thâm hụt nợ công và các khoản nợ của các ngân hàng châu Âu. Hơn nữa, những biện pháp này không đảm bảo một sự tăng trưởng cao hơn và ổn định hơn ở châu Âu. Nhưng sự tăng trưởng này là cần thiết cho việc chỉnh đốn lại ngân sách của những nước nợ nhiều nhất.

Chỉ đến tháng 9/2012, Ngân hàng trung ương châu Âu (ECB) đã triển khai kế hoạch mua trái phiếu chính phủ trên các thị trường thứ cấp – giao dịch tiền tệ công khai (OMT), điều này đã mang lại sự yên ắng tương đối cho các thị trường. Hình thức giao dịch này, nhờ sự tăng cường có ý nghĩa vai trò của ECB như là người cho vay cuối cùng, đã loại bỏ được nguy cơ xảy ra khủng hoảng tất yếu của hệ thống đồng euro. ECB đã khiến cho các ngân hàng tin rằng sự sống sót của đồng tiền chung châu Âu không còn là vấn đề nữa, và không nước nào phải rời khỏi Khu vực đồng euro.

Trụ sở Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) tại Frankfurt am Main, miền tây Đức. (Nguồn: AFP/TTXVN)
Trụ sở Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) tại Frankfurt am Main, miền tây Đức. (Nguồn: AFP/TTXVN)

Các chính sách kinh tế kém hiệu quả

Liên quan tới nguồn cung tiền mặt, những phương thức này đã tỏ ra hiệu quả; nhưng điều này lại không đúng với các chính sách kinh tế đang tiếp tục theo đuổi chính sách ngân sách khắc khổ, với những tác động ngấm ngầm tới thị trường phức tạp của Khu vực đồng euro.

Cách tiếp cận này đòi hỏi chính sách tiền tệ phải kích thích tăng trưởng (tức kích cầu), đưa ra những lựa chọn cứng rắn cho phép củng cố ngân sách (căn cứ vào các quy tắc châu Âu), và cho rằng những cải cách cơ cấu sẽ tạo thuận lợi cho một sự tái cân bằng mang tính cạnh tranh, làm tăng tính linh hoạt của thị trường lao động (trong vấn đề tiền lương và sa thải người lao động), hứa hẹn một sự tăng trưởng cao hơn trong các nền kinh tế ngoại vi thuộc Khu vực đồng euro.

Cách tiếp cận này về cơ bản đã thất bại, và kéo theo một đợt suy thoái kinh tế lần thứ hai năm 2012-2013, trong khi kinh tế lại được phục hồi ở những nơi khác. Sự thất bại này có một nguồn gốc rõ ràng: Người ta đã không cho rằng trong các nền kinh tế “suy nhược” như các nền kinh tế châu Âu, chính sách tiền tệ truyền thống đã không có hiệu quả, và không thể duy trì chu kỳ tăng trưởng thông qua việc giảm lãi suất.

Người ta đã không cho rằng trong các nền kinh tế “suy nhược” như các nền kinh tế châu Âu, chính sách tiền tệ truyền thống đã không có hiệu quả

Trong những điều kiện khiến chính sách tiền tệ truyền thống này trở nên không hiệu quả, cần phải lựa chọn: một chính sách tiền tệ phi truyền thống như chính sách đã từng được Ngân hàng dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) áp dụng, hay một chính sách ngân sách có lợi cho chu kỳ suy thoái này. Lựa chọn đã không được đưa ra, và sự kết hợp giữa chính sách ngân sách khắc khổ và việc không có chính sách kích thích tiền tệ (gắn liền với biện pháp hạn chế tiền tệ do lạm phát và lãi suất thực gia tăng) đã dẫn đến những tác động tiêu cực cho toàn bộ Khu vực đồng euro: suy thoái kinh tế, thất nghiệp trầm trọng.

Thực trạng trên ngày càng nghiêm trọng bởi các tiến trình điều chỉnh (cơ sở của việc sử dụng các công cụ quản trị mới) đã hoàn toàn tác động tới các nước khó khăn và nợ nhiều nhất, với biểu hiện là đồng tiền của họ bị mất giá, tỷ lệ thất nghiệp cao, tiền lương và nhu cầu nội địa sụt giảm.

Những nước được hưởng lợi từ thặng dư thương mại, như Đức, đã không tham gia sự điều chỉnh này. Những nước nợ nhiều nhất, chẳng hạn như Italy, đã rơi vào vòng luẩn quẩn, bởi sự tăng thuế và giảm chi tiêu công đã làm giảm thu nhập, làm nghiêm trọng thêm tỷ lệ nợ công/GDP.

Do vậy, năm 2012-2013 đã trải qua một giai đoạn suy thoái kéo dài, tiếp sau cuộc khủng hoảng 2008-2009, nhưng khác với cuộc khủng hoảng này ở chỗ nó bắt nguồn từ châu Âu. Nghiêm trọng hơn, đợt suy thoái lần thứ hai này xảy ra tiếp theo sau một tác động giảm phát sâu sắc, với những hậu quả nặng nề cho tương lai của Khu vực đồng euro.

(Nguồn: AFP/TTXVN)
(Nguồn: AFP/TTXVN)

Sự phục hồi và những giới hạn của các chính sách châu Âu

Sau 6 năm và 2 đợt suy thoái tiếp sau cuộc khủng hoảng lớn, Khu vực đồng euro đã tăng trưởng trở lại vào năm 2014, nhờ bối cảnh quốc tế thuận lợi, như giá dầu và lãi suất giảm. Sự phục hồi kinh tế chắc chắn mang tính tích cực, nhưng sự năng động kinh tế vẫn còn khiêm tốn nếu so sánh với các giai đoạn tăng trưởng trước đó và với những tiềm năng của châu Âu giai đoạn trước khủng hoảng.

Ngoài bối cảnh quốc tế có lợi, động lực tăng trưởng thực sự trong giai đoạn mới đây là chính sách tiền tệ phi truyền thống của ECB, chương trình nới lỏng định lượng (QE) được đưa ra hồi tháng 3/2015 – sau nhiều tuyên bố theo hướng này – để khắc phục các xu hướng giảm phát. Hành động của ECB không đủ để khôi phục sự tăng trưởng bền vững cho Khu vực đồng euro, cho dù chương trình nới lỏng định lượng được quyết định mở rộng cho tới tháng 3/2017, và mới đây là cho tới tháng 12/2017, bất chấp mức mua trái phiếu công được giới hạn ở mức 60 tỷ euro mỗi tháng, so với 80 tỷ ban đầu.

Để thúc đẩy Khu vực đồng euro tăng trưởng mạnh mẽ hơn, người ta cũng không thể bằng lòng với việc phối hợp các biện pháp và các hình thức can thiệp đã được sử dụng trước đây vốn chỉ mang lại những kết quả khiêm tốn.

 Rõ ràng EU đang thiếu một mục tiêu chiến lược về kinh tế và tăng trưởng, cùng với một cuộc cải cách trong quản trị châu Âu

Hay nói cách khác việc phối hợp các chính sách điều chỉnh ngân sách cùng các nguyên tắc hiện tại, và những cải cách cơ cấu có chỉ đạo nhằm tăng cường khả năng cạnh tranh. Sự linh hoạt ngày càng tăng trong việc áp dụng các quy tắc ngân sách hiện tại dưới sự chỉ đạo của Ủy ban Juncker, dù mang tính tích cực, cũng không đủ.

Cho tới thời điểm hiện tại, rõ ràng EU đang thiếu một mục tiêu chiến lược về kinh tế và tăng trưởng, cùng với một cuộc cải cách trong quản trị châu Âu, điều cho phép đối phó với các phong trào dân túy đang phát triển ở hầu khắp mọi nơi của châu Âu. Các cuộc cải cách cơ cấu, mà nhiều nước đã tiến hành, chắc chắn cải thiện các điều kiện về nguồn cung. Cần phải nỗ lực đẩy mạnh và tăng cường các tiến trình quảng cáo này. Nhưng những cải cách cơ cấu như vậy, dù là những cải cách cơ bản, chỉ có thể mang lại những những tác động tích cực trong trung và dài hạn, và chúng không kéo theo tác động ngắn hạn, hay thậm chí đó là những tác động ngắn hạn tiêu cực nhất là khi lãi suất thực gia tăng.

Để đảm bảo những tác động tích cực của các cải cách cơ cấu, cần phải thực hiện các chính sách kích tổng cầu. Tuy nhiên, điều này không đúng – hoặc chỉ đúng một cách rất hạn hẹp – đối với nhiều nước châu Âu, do có sự khác biệt giữa mức thu nhập tiềm năng và thu nhập thực tế. Để đạt được mục tiêu này, cần có các chính sách ngân sách mở rộng cho toàn bộ Khu vực đồng euro. Để thực hiện những chính sách này, cần tiến hành các tiến trình điều chỉnh cân đối hơn giữa các nước, cũng như thực hiện một chính sách có tính đến khả năng của mỗi nước.

(Nguồn: Financial Tribune)
(Nguồn: Financial Tribune)

Kế hoạch Juncker, bước đi đầu tiên đúng hướng

Nhiều nhà bình luận cho rằng một chính sách ngân sách như vậy – tùy thuộc vào chu kỳ suy thoái hay tăng trưởng kinh tế, đồng thời khôi phục tổng cầu – không thể phụ thuộc vào việc áp dụng riêng rẽ hay phối hợp một cách gián tiếp các chính sách quốc gia vốn chỉ dừng lại ở việc theo đuổi các quy tắc hiện tại. Bởi hệ thống các quy tắc ngân sách hiện tại không những ngày càng phức tạp và thiếu minh bạch, mà ngày càng không được các nước thành viên tuân thủ đầy đủ.

Song song với các chính sách ngân sách năng động hơn, một sự khôi phục các hoạt động đầu tư có thể kích thích tăng trưởng. Như nhiều phân tích trên quy mô quốc tế (như phân tích của Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế hay Quỹ tiền tệ quốc tế…) đã chỉ ra, các hoạt động đầu tư nhà nước có thể thúc đẩy tổng cầu hay khả năng về cung trong dài hạn của nhiều nước khác nhau. Những hoạt động đầu tư đó cũng có thể góp phần giảm nợ của các nước, bởi nó cho phép tạo ra thu nhập, sản lượng và việc làm. Để phát huy hiệu quả, một kế hoạch đầu tư công mới cần được bổ sung cho kế hoạch Juncker hiện tại – dù tích cực hay không – có thể được nhìn nhận như là một bước đi đúng hướng đầu tiên.

Giờ đây, những quyết định mới này đã bị cản trở bởi sự thiếu ý chí chính trị của nhiều nước thành viên, và đặc biệt bởi việc không có các công cụ thích đáng và các cơ chế ra quyết định chung. Rõ ràng, cần phải bắt đầu bằng việc xây dựng một khả năng ngân sách chung, hay ít ra là bắt đầu một ngân sách chung cho Khu vực đồng euro. Cho dù bị giới hạn ở hình thái ban đầu, một ngân sách như vậy có thể đảm nhiệm 3 chức năng cơ bản: một công cụ can thiệp tùy thuộc vào chu kỳ tăng trưởng hay suy thoái kinh tế; một khả năng đầu tư ở quy mô châu Âu; một cơ chế hỗ trợ tài chính và làm giảm nhẹ các cú sốc bất đối xứng có lợi cho một số nước thành viên. Cần phải xây dựng một tiến trình dần dần, từng bước, nhưng ngay từ bây giờ với một hướng đi rõ ràng.

Cần phải bắt đầu bằng việc xây dựng một khả năng ngân sách chung, hay ít ra là bắt đầu một ngân sách chung cho Khu vực đồng euro 

Để đi theo hướng này, cần phải vượt qua sự ngờ vực sâu sắc được hình thành giữa các nước châu Âu trong những năm khủng hoảng. Nhiều nước, đặc biệt các nước Bắc Âu, trong đó có Đức, vẫn ưu tiên các chính sách quốc gia đơn phương, phối hợp cùng các quy tắc chung chỉ hướng tới việc giảm bớt những nguy cơ đối với những nước đặc biệt được quan tâm.

Một cách tổng quát hơn, vấn đề còn tồn tại là một hệ thống quy tắc – dù cứng rắn nhất – chỉ đạo các chính sách kinh tế của các nước, không thể mang lại “giải pháp tập thể” cho những nguy cơ mang tính hệ thống trong trường hợp xảy ra khủng hoảng ngân hàng, hay cú sốc kinh tế vĩ mô.

Trong những bối cảnh như vậy, cần kêu gọi xây dựng các cơ chế quản lý chung đối với những rủi ro này, đó là những cơ chế đòi hỏi phải có sự chia sẻ và giảm bớt những rủi ro kinh tế. Đây cũng là vấn đề liên quan tới liên minh ngân hàng – mà tiến trình xây dựng mới được thực hiện một nửa và cần phải được hoàn thiện để cho phép Khu vực đồng euro tránh được một cuộc khủng hoảng tài chính trong tương lai, song tiến trình này đã vấp phải sự phủ quyết của Đức vốn không chấp nhận chia sẻ những rủi ro của các hệ thống ngân hàng của các nước Nam Âu.

Do vậy, cần phải vạch ra những hướng đi mới, cho dù khó khăn, nhằm tăng cường công tác quản trị châu Âu. Để làm được điều này, cần tạo được sự đồng thuận giữa nhóm nước đề cao các chính sách giảm thiểu rủi ro cho mỗi nước theo các quy tắc đã được xác định với nhóm các nước ủng hộ các cơ chế chia sẻ rủi ro và kêu gọi mỗi nước cần linh hoạt hơn trong việc thực thi các chính sách của họ.

Trong những điều kiện hiện tại, một sự đồng thuận dường như là khó khăn, thậm chí là điều không thể. Nhưng mức độ nghiêm trọng của các vấn đề phải đối mặt, và sự ngờ vực sâu sắc đã kêu gọi những giải pháp đầy tham vọng và hiệu quả. Nếu các cuộc bầu cử trong năm 2017 kết thúc theo hướng có lợi cho các lực lượng ủng hộ tiến trình xây dựng châu Âu, thì chúng có thể mở ra một bối cảnh chính trị tích cực. Chúng ta chỉ có thể mong đợi điều này, chừng nào vẫn còn nhiều thách thức đối với tương lai của EU./.

(Nguồn: MMM Global)
(Nguồn: MMM Global)