“Đây không phải rock”, “Thật ngớ ngẩn”, “Thứ âm nhạc nửa mùa”, đó là những gì mà giới rock đầu thập niên 2000 nói về Linkin Park, ban nhạc của những chàng trai Mỹ sinh giữa thập niên 70, kỷ nguyên của Queen, Led Zeppelin, Black Sabbath, Aerosmith hay Iron Maiden.
“Đây không phải rock”, “Thật ngớ ngẩn”, “Thứ âm nhạc nửa mùa”, giới rock đầu thập niên 2000 đã từng nói như thế về Linkin Park
Từ đó tới nay đã gần hai thập kỷ, nhưng vẫn có những quan điểm trái chiều về Linkin Park như thế vang lên ngay cả trong thời điểm Chester Bennington vừa treo cổ tự vẫn. Nhưng khác với quá khứ, Linkin Park giờ chẳng bận tâm tới những nhận xét ấy.
5 chàng trai tại Los Angeles có quyền ngẩng cao đầu là người đi tiên phong của alternative rock vào thời điểm đầu thập niên 2000, thay vì chỉ là thứ con ghẻ của một thế hệ rock vĩ đại suốt bốn thập niên trước đó.
Linkin Park là gì?
“Họ bùng cháy, giận dữ. Nhưng luôn tích cực. Không say xỉn trong các tour lưu diễn, không văng tục trong các album”, Rob Sheffield của tờ Rolling Stone đã mở đầu bài viết về Linkin Park vào thời điểm tháng 3/2001 theo cách ấy.
Khác biệt, trẻ trung, đầy nhiệt huyết, không đi vào vết xe đổ của những bậc đàn anh, đó là Linkin Park. Đấy là thời điểm album đầu tay Hybrid Theory vừa được ra mắt. Hybrid Theory thành công rực rỡ với tổng cộng 30 triệu bản bán ra trên toàn thế giới, trung bình mỗi tuần có 100 nghìn bản đến với những khán giả. Phần lớn là trẻ tuổi.
MV Papercut trong album Hybrid Theory của Linkin Park. (Nguồn: Linkin Park Official YouTube Channel)
“Khi Mike bắt đầu viết lời”, Chester nói, “Chúng tôi muốn thành thật và cởi mở hết sức có thể. Đó sẽ phải là thứ âm nhạc kết nối tất cả, chứ không chỉ là những thứ thô tục và bạo lực. Chúng tôi không muốn là tâm điểm của sự nổi loạn, nhưng Linkin Park không muốn đứng sau điều gì đó để cho thấy rằng mình mạnh mẽ đến như thế nào”.
Linkin Park đã làm được. Hybrid Theory và Meteora thành “thánh ca” của những thanh thiếu niên muốn đột phá vào đầu thập niên 2000. Tất cả thấy được chính mình trong âm nhạc của nhóm. Đó là đau đớn mang tên Faint, những day dứt của Crawling, cảm giác muốn chạy trốn của Runaway, bội phản Lying from you, lạc lõng của Numb…
Sau hàng thập niên nghe thứ âm nhạc phản chiến, về tình yêu đôi lứa, về cái chết trong tuyệt vọng từ những cú solo dài cả dặm của các tay lead guitar, và cả những giọng cao vút của những vocal béo ục ịch theo thời gian. Những người trẻ muốn thay đổi, và Linkin Park cho họ điều ấy.
Thứ âm nhạc ầm ĩ bắt tai với rap, với đầy đĩa, cùng những cú quạt guitar rè biến mọi ảo mộng của những con người trẻ trở thành hiện thực. Linkin Park không phải những người xuất sắc nhất ở chính thứ âm nhạc của họ, nhưng LP lại tạo ra ảnh hưởng lớn nhất, sâu đậm nhất. Tới bây giờ, âm nhạc của hai album đầu ấy vẫn vang lên khắp các hang cùng ngõ hẻm của thế giới, cả thật lẫn ảo.
Bùng nổ, dữ dội nhưng đầy hiện đại, Linkin Park là những người phát ngôn của âm nhạc đầu thập niên 2000.

“Đỡ họ dậy”
Những ngày đầu tiên ấy, bốn chàng trai nhảy tưng tưng trên sân khấu (trừ Joe Hahn, tất nhiên rồi) trong những concert chỉ vài trăm người, Chester cạo trọc, Mike nhuộm đỏ. Họ rất ầm ĩ. Nhưng trong sự ầm ĩ ấy là những trái tim ấm nóng.
16/09/2001, Docklands Arena, London, Linkin Park đã phải đợi tới lần thứ hai mới có thể hoàn thành Papercut. Có ai đó đã ngã. Và cả ban nhạc dừng lại. “Đỡ cậu ấy dậy, ngay lập tức!”, Chester mắt sáng rực chỉ vào nơi nào đó trong đám đông hỗn loạn kia. “Chúng tôi đặt sự an toàn của các bạn lên hàng đầu”, Mike nói. “Tôi quan tâm tới tất cả mọi người tới show, chúng ta sẽ rock cả đêm phải không? Vì thế, xin hãy quan tâm lẫn nhau”, Chester chốt hạ trước khi nhạc trở lại.
Linkin Park đã tạm dừng biểu diễn trong buổi live concert tại sân vận động Docklands Arena, London, hồi năm 2011, để nhắc fan về sự an toàn. (Nguồn: YouTube)
“When someone falls, what did you do? Pick them up” (Khi ai đó ngã, các bạn sẽ làm gì? Đỡ họ dậy!). Đoạn thoại này từ đó trở thành truyền thống trong mọi tour diễn của Linkin Park. Chester cùng bốn người đồng đội quan tâm tuyệt đối tới khán giả. Thay vì đứng trên sân khấu như những vị thần gào thét, lấy vòi cứu hỏa bắn xuống đám đông, Linkin Park muốn nhảy xuống, ôm những người ủng hộ họ. Thay vì mặc kệ những khán giả chơi thuốc và bị dẫm đạp tới chết, Linkin Park sẵn sàng dừng nhạc, đảm bảo an toàn rồi mới tiếp tục.
Chúng ta vẫn biết Chester từng có quá khứ nghiện ngập và mắc những vấn đề về rượu, nhưng đó chưa bao giờ là lý do ngăn cản những tour diễn hay việc ra mắt album. Thậm chí ngược lại, “Breaking the habit” là một tuyệt phẩm của Chester về những ngày tháng lầm lỡ ấy.
Hãy nhìn vào rock của những tượng đài như Aerosmith để thấy sự khác biệt, Steven Tyler từng bị khán giả ném lựu đạn lên sân khấu vì ra diễn trong tư thế say xỉn. Dave Mustaine bị đuổi khỏi Metallica vì nghiện cocaine. Axl Rose từng lao thẳng xuống đấm khán giả với hàng chục gram cocaine trong người.
Linkin Park và Chester là thần tượng của những thanh thiếu niên nổi loạn kia. Thần tượng thực sự ở cả nhân cách sống, chứ không đơn thuần là hình mẫu của sự nổi tiếng, danh vọng hay tiền bạc.

Cuộc đấu với quá khứ
“Bánh bao ngày xưa bao giờ cũng to hơn bánh bao bây giờ”, Lỗ Tấn có lý. Tâm lý hoài cổ xuất hiện ở bất kỳ ai. Bánh bao ngày xưa đúng là to hơn bánh bao bây giờ thật. Nhưng bánh bao của ngày xưa ấy cũng có những vấn đề của riêng nó.
Linkin Park bị so sánh quá nhiều với những tượng đài rock trong quá khứ vì thứ âm nhạc nu-metal mới lạ mà họ chơi. Nhưng chính những tượng đài kia cũng gặp phải vô số vấn đề khi thời hoàng kim đi qua và phải loay hoay trong bài toán bản sắc.
Linkin Park bị so sánh quá nhiều với những tượng đài rock trong quá khứ vì thứ âm nhạc nu-metal mới lạ mà họ chơi. Nhưng chính những tượng đài kia cũng gặp phải vô số vấn đề khi thời hoàng kim đi qua.
Metallica sau thành công vang dội của Kill’ Em All, Ride the Lightning, Master of Puppets, And Justice for All đã gặp vô số chật vật với Load, Reload (những album không-hề-có-một-câu-solo nào). St Anger là một thảm họa. Năm 2003, James Hetfield và đồng bọn thua trực tiếp Linkin Park với Meteora tại lễ trao giải MTV Award. Năm đó James 41 tuổi.
Tới giờ khi Metallica chấp nhận quay trở lại thứ âm nhạc định hình nên sự vĩ đại của họ, thì chẳng khó để nhận thấy Kirk Hammet không còn solo trơn tru trọn vẹn Master of puppets hay Lars Ulrich luôn lỡ nhịp trống trong những khoảnh khắc quyết định.
Guns N Roses sau thời gian hoàng kim với bộ khung Duff McKagan, Slash, Axl Rose, Steven Adler với Appetite of Destruction, cùng hai album Use your Illusion cũng lao vào tâm bão sau khi Slash rời nhóm vì mâu thuẫn với Axl vào năm 1996. Chinese Democracy năm 2008 là một thành công? Không ai dám nói vậy. 2016, Guns N Rose tái hợp, nhưng Axl chỉ còn là cái bóng của chính mình sau quãng thời gian ăn chơi hoang tàn không điểm dừng.
Không ít fan đã rời bỏ Linkin Park sau album Minutes To Midnight ra mắt hồi năm 2007. (Nguồn YouTube)
Ai cũng có thời hoàng kim của họ. Linkin Park cũng vậy. Nhưng thứ quá khứ mà LP phải đối mặt còn là chính họ. Có chẳng ít rock fan đã từ bỏ Linkin Park sau khi họ ra album thứ ba Minute to Midnight vào năm 2007 vì những âm điệu quá pop trong Shadow of the day, The little things give you away, Hands held high hay Valentine’s day. Âm nhạc của Linkin Park không còn ầm ĩ. Những người hâm mộ ghét điều ấy. Nhưng Chester và các đồng đội không dừng lại. “A thousand sun”, “Living Things”, “The Hunting Party” tiếp tục được ra đời bất chấp lượng lớn người hâm mộ tiếp tục rời đi.
Những album không còn được tạo ra để thỏa mãn cái tôi nổi loạn của những thanh thiếu niên nữa. Thay vào đó, các album thỏa mãn chính các thành viên Linkin Park. “Chúng tôi đã sáng tác hai album dành riêng cho các bạn”, Chester trả lời phỏng vấn cách đây không lâu. Khi được hỏi tại sao không thể gào thét lại những cảm xúc cho lứa tuổi teen được nữa, Chester tweet ngắn gọn “Vì tôi đã 41 tuổi”.
Những người hâm mộ không thể kỳ vọng điều gì đó nhiều hơn thế từ Linkin Park. Chester, Mike đã làm mới chính mình hệt như cách họ đã làm với âm nhạc đầu thập niên 2000 với Hybrid Theory. Thứ âm nhạc mới mẻ, dù có bị nhận hàng tấn gạch đá, vẫn sẽ phải được tạo ra. Chester, Mike cùng các đồng sự không phản bội chính mình khi luôn hướng tới cái mới.

Chester Bennington
Chiếc áo không tạo nên thầy tu. Nếu bỏ Linkin Park, Chester còn gì? Một người đàn ông hai đời vợ, sáu đứa con, từng trải qua một tuổi thơ khủng khiếp khi bị cưỡng hiếp, bố mẹ li dị năm 11 tuổi, chơi thuốc trong 7 năm trước khi bị đuổi ra khỏi nhà, nghiện rượu, vật lộn với cuộc sống trước khi nhận được cuộc gọi định mệnh từ Jeff Blue mời gia nhập Xero sau này đổi tên thành Linkin Park.
Người đàn ông ấy còn sở hữu giọng hát không thua kém bất kỳ nhân vật tiếng tăm nào trong lịch sử. Giống “Iron Man” được Robert Downey Jr thủ vai , Chester là nhân vật cự phách ngay cả khi tháo mác vocal chính của Linkin Park, dù sở hữu một quá khứ đủ đầy những bi kịch.
Tạp chí Rolling Stone uy tín nhất làng âm nhạc rock không xếp Chester lọt vào danh sách 100 giọng ca hay nhất, song vocal của Linkin Park vẫn xứng đáng có một vị trí đặc biệt trong trái tim những người hâm mộ lẫn cả những cuộc bình chọn sau này. Cú scream 15 giây không nghỉ của Chester trong Given Up (Minute to Midnight, 2007) tới nay vẫn là một minh chứng cho quãng giọng luôn bị đánh giá thấp của Chester trong các cuộc bình chọn (chỉ vì anh và Linkin Park chơi nu-metal?). Còn nếu muốn sâu lắng, Shadow of the day, My December hay bản cover “Rolling in the deep” vào năm 2011 là những ví dụ chân thực hơn cả.
Cú scream dài 15 giây nổi tiếng của Chester trong màn trình diễn live hồi năm 2011. (Nguồn: YouTube)
Từ giã cuộc sống ở tuổi 41, Chester để lại cú sốc cho tất cả người hâm mộ Linkin Park trên toàn thế giới. Tất cả tiếc thương cho anh, cho Linkin Park, cho tuổi trẻ không bao giờ quay lại được nữa. Nhưng cái chết của Chester không tạo ra sự bi lụy.
Khác với Kurt Cobain, người tự sát vào năm 27 tuổi đã kéo theo một cuộc khủng hoảng ở những thế hệ thanh thiếu niên coi anh là thủ lĩnh, Chester để lại cho những người hâm mộ anh một di sản đồ sộ về âm nhạc, những bài học về sự vươn lên từ khó khăn, và sự chuyên nghiệp tuyệt đối của một ngôi sao nhạc rock (điều cực hiếm ở những tay chơi thể loại âm nhạc ồn ã này).
Nguyên nhân sau quyết định tự vẫn của Chester hẵng vẫn còn là một bí ẩn, nhưng thời gian trôi qua, thế giới rồi sẽ nhớ Chester vocal chính của Linkin Park hơn hay Chester-tự-sát hơn? Câu hỏi đấy những độc giả có thể tự trả lời. Âm nhạc của Chester cùng Linkin Park vẫn sẽ vang khắp hang cùng ngõ hẻm trên thế giới này, như từ trước tới nay vẫn vậy.
Yên nghỉ nhé, Chester.
