vietnam_asean_25years

biach-1595907796-77.jpg

Lời tòa soạn

Chiều 28/7/1995, lá quốc kỳ Việt Nam tung bay trên bầu trời thủ đô Bandar Seri Begawan của Brunei Darussalam, chính thức đánh dấu cột mốc Việt Nam trở thành thành viên thứ bảy của Hiệp hội các quốc Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN).

Sau 25 năm, chúng ta đã tiến những bước dài trong quá trình hội nhập, vị thế không ngừng được nâng cao, trở thành thành viên tin cậy, tích cực của các tổ chức và định chế quan trọng trên thế giới, góp phần không nhỏ vào hòa bình và ổn định trong khu vực cũng như trên toàn cầu.

Năm 2020 cũng là năm Việt Nam giữ vai trò Chủ tịch ASEAN, với chương trình nghị sự gồm nhiều vấn đề nóng hổi, nhất là trong bối cảnh đại dịch COVID-19 làm chao đảo toàn thế giới.

Và một lần nữa, chúng ta đã chứng tỏ được vị thế và bản lĩnh của mình trước những đòi hỏi mang tính thách thức của thời đại.

Bài 1: Tham gia ASEAN: Lợi ích và trách nhiệm của Việt Nam

Bài 2: Vai trò của Việt Nam tại ASEAN trong mắt các chuyên gia quốc tế

Bài 3: Phỏng vấn Đại sứ Indonesia tại Việt Nam: Việt Nam đã đóng góp rất nhiều cho ASEAN

Xuất khẩu của Việt Nam sang các nước ASEAN (1995-2020)

Tham gia ASEAN

LỢI ÍCH VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA VIỆT NAM

Đại sứ, Tiến sĩ Luận Thuỳ Dương (Học viện Ngoại giao)

Ngày 28/7/1995, tại Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN lần thứ 28 (AMM-28) tổ chức ở Brunei Darussalam, Việt Nam chính thức gia nhập ASEAN và trở thành thành viên thứ bảy của tổ chức này. Việc gia nhập ASEAN đã đánh dấu một bước ngoặt trong chính sách đối ngoại của Việt Nam, cả về chiến lược lẫn kinh tế.

Trước hết, gia nhập ASEAN không chỉ giúp Việt Nam có một môi trường chiến lược thuận lợi để thúc đẩy quan hệ láng giềng với các nước trong khu vực, giải quyết những vấn đề trong quan hệ song phương do lịch sử để lại hoặc mới phát sinh, mà còn giúp Việt Nam có tiếng nói trên trường quốc tế, hỗ trợ Việt Nam thúc đẩy quan hệ với các đối tác.

Đặc biệt, tham gia ASEAN giúp Việt Nam sử dụng được các cơ chế của ASEAN để vừa lôi kéo sự can dự, vừa tạo sự cân bằng mềm trong quan hệ với các nước lớn như Trung Quốc, Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ, Nga… nhằm giải quyết các vấn đề chính trị-an ninh nhạy cảm ở khu vực ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia, trong đó có cả tranh chấp ở Biển Đông, từng bước định hình các quy tắc ứng xử trên Biển Đông.

Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm (thứ hai, từ phải sang), Tổng Thư ký ASEAN và các Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN tại cuộc họp kết nạp Việt Nam trở thành thành viên chính thức thứ bảy của ASEAN, ngày 28/7/1995, tại Thủ đô Bandar Seri Begawan (Brunei). (Ảnh: Trần Sơn/TTXVN) 
Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm (thứ hai, từ phải sang), Tổng Thư ký ASEAN và các Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN tại cuộc họp kết nạp Việt Nam trở thành thành viên chính thức thứ bảy của ASEAN, ngày 28/7/1995, tại Thủ đô Bandar Seri Begawan (Brunei). (Ảnh: Trần Sơn/TTXVN) 

Thứ hai, khi gia nhập ASEAN, mối quan tâm chính của Việt Nam vào thời điểm bấy giờ là thoát khỏi các khó khăn kinh tế-xã hội, thúc đẩy phát triển kinh tế thì ASEAN chính là thị trường xuất nhập khẩu và là nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đầu tiên của Việt Nam. ASEAN còn giúp Việt Nam tranh thủ cơ hội hợp tác với các nước đối tác bên ngoài Hiệp hội, giúp Việt Nam mở các cánh cửa đến với các thị trường mới. Việt Nam đã tham gia vào các Khu vực thương mại tự do của ASEAN (AFTA) và của ASEAN với các đối tác, Diễn đàn Hợp tác Á – Âu (ASEM), Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (APEC)… Đây là các hợp tác liên khu vực, liên châu lục, giúp Việt Nam có quan hệ hợp tác, cả trên bình diện song phương lẫn đa phương, với các nước phát triển hàng đầu như Mỹ, Nhật Bản, và các nước châu Âu, tranh thủ nguồn vốn, công nghệ, kỹ thuật cao, cùng kinh nghiệm quản lý tốt, góp phần đẩy nhanh hơn nữa đổi mới và phát triển của Việt Nam.

Thứ tư, hội nhập vào ASEAN là động lực thúc đẩy Việt Nam phát triển nhân lực, đào tạo đội ngũ cán bộ trong công tác đối ngoại, nhất là cán bộ đa phương. Nhờ đó Việt Nam tạo dựng được nền tảng vững chắc cho các bước hội nhập ngày càng sâu và rộng với thế giới.

Kể từ khi gia nhập ASEAN năm 1995, Việt Nam đã có nhiều đóng góp quan trọng cho sự phát triển và lớn mạnh của ASEAN.

Nghi thức thượng cờ tại Lễ kết nạp Việt Nam là thành viên chính thức thứ bảy của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), chiều 28/7/1995, tại Thủ đô Bandar Seri Begawan (Brunei). (Ảnh: Trần Sơn/TTXVN)
Nghi thức thượng cờ tại Lễ kết nạp Việt Nam là thành viên chính thức thứ bảy của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), chiều 28/7/1995, tại Thủ đô Bandar Seri Begawan (Brunei). (Ảnh: Trần Sơn/TTXVN)

Khi mới tham gia vào ASEAN, trong một hai năm đầu, không tránh khỏi việc các nước ASEAN cũ lo ngại rằng Việt Nam với hệ thống chính trị khác biệt có thể làm thay đổi phương cách ASEAN, suy giảm đoàn kết trong ASEAN. Tuy nhiên Việt Nam đã nhanh chóng hội nhập và chứng minh được vai trò tích cực của mình trong việc duy trì phương cách ASEAN và thúc đẩy đoàn kết trong ASEAN. Việt Nam cũng đã tích cực thúc đẩy ASEAN kết nạp các nước Campuchia, Lào và Myanmar, trở thành cây cầu nối Đông Nam Á lục địa với Đông Nam Á hải đảo, và biến giấc mơ về một đại gia đình ASEAN gồm 10 quốc gia trở thành hiện thực.Chỉ 3 năm sau, Việt Nam đã đủ sức nắm giữ vai trò Chủ tịch luân phiên của ASEAN, có nhiều sáng kiến thúc đẩy liên kết nội khối và tăng cường quan hệ đối ngoại với các đối tác bên ngoài như Cấp cao ASEAN +3, Diễn đàn Đông Á…

Trong quá trình hình thành ý tưởng và mô hình Cộng đồng ASEAN, Việt Nam cùng với các nước có tư tưởng tương đồng, đã có sáng kiến quan trọng thúc đẩy trụ cột thứ 3 là hợp tác Văn hóa-Xã hội, như một chân kiềng có tác dụng bổ trợ và gắn kết hữu cơ với 2 trụ cột khác của Cộng đồng ASEAN là Chính trị – An ninh và Kinh tế, qua đó, đảm bảo sự phát triển cân bằng và hài hòa của ASEAN.

Để xây dựng thành công Cộng đồng, Việt Nam luôn nhấn mạnh tầm quan trọng của việc thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các nước thành viên. Việt Nam là một trong những nước đi đầu thúc đẩy triển khai Sáng kiến Liên kết ASEAN. Việt Nam cũng đã chủ động đề xuất và được các nước nhất trí thông qua Tuyên bố Hà Nội về Thu hẹp khoảng cách phát triển, như một bộ phận quan trọng trong Lộ trình chung xây dựng Cộng đồng.

Bộ trưởng Thương mại Vũ Khoan và Đại diện thương mại Hoa Kỳ, bà Charlene Barshefsky ký Hiệp định Thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ, ngày 13/7/2000, tại Thủ đô Washington D.C, kết thúc 4 năm đàm phán liên tục. (Ảnh: Lê Chi/TTXVN)
Bộ trưởng Thương mại Vũ Khoan và Đại diện thương mại Hoa Kỳ, bà Charlene Barshefsky ký Hiệp định Thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ, ngày 13/7/2000, tại Thủ đô Washington D.C, kết thúc 4 năm đàm phán liên tục. (Ảnh: Lê Chi/TTXVN)

Một khía cạnh quan trọng khác trong tiến trình xây dựng Cộng đồng ASEAN mà Việt Nam đã tham gia rất tích cực và để lại dấu ấn đậm nét là việc xây dựng, ký kết, phê chuẩn và triển khai Hiến chương ASEAN. Quá trình soạn thảo nội dung Hiến chương, Việt Nam tham gia rất tích cực và chủ động, đề ra các định hướng phát triển của Hiệp hội; củng cố và hệ thống hóa các mục tiêu và nguyên tắc cơ bản của ASEAN; góp phần dung hòa các quan điểm khác biệt, bảo đảm nội dung Hiến chương vừa phù hợp với thực tiễn hoạt động, vừa đáp ứng được nhu cầu phát triển của ASEAN.

Với nhiều đóng góp to lớn cho sự phát triển của ASEAN trong suốt 25 năm qua, Việt Nam ko chỉ thể hiện là một thành viên có trách nhiệm mà còn chứng tỏ là một thành viên có vai trò ngày càng quan trọng trong ASEAN.

Tháng 12/1998, Việt Nam tổ chức thành công Hội nghị ASEAN lần thứ VI. Đây là lần đầu tiên Việt Nam đăng cai một hội nghị của Hiệp hội kể từ khi gia nhập. ASEAN khi đó đã có 9 thành viên (thêm Lào và Myanmar). Các nhà lãnh đạo nhất trí thông qua Chương trình Hành động Hà Nội, góp phần tăng cường đoàn kết, đẩy mạnh hợp tác, khôi phục hình ảnh ASEAN và định hướng phát triển. Trong ảnh: Thủ tướng Phan Văn Khải (giữa) và các nhà lãnh đạo ASEAN chụp ảnh chung tại Phiên bế mạc Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 6, diễn ra tại Hà Nội từ 15-16/12/1998. (Ảnh: Thế Thuần/TTXVN)
Tháng 12/1998, Việt Nam tổ chức thành công Hội nghị ASEAN lần thứ VI. Đây là lần đầu tiên Việt Nam đăng cai một hội nghị của Hiệp hội kể từ khi gia nhập. ASEAN khi đó đã có 9 thành viên (thêm Lào và Myanmar). Các nhà lãnh đạo nhất trí thông qua Chương trình Hành động Hà Nội, góp phần tăng cường đoàn kết, đẩy mạnh hợp tác, khôi phục hình ảnh ASEAN và định hướng phát triển. Trong ảnh: Thủ tướng Phan Văn Khải (giữa) và các nhà lãnh đạo ASEAN chụp ảnh chung tại Phiên bế mạc Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 6, diễn ra tại Hà Nội từ 15-16/12/1998. (Ảnh: Thế Thuần/TTXVN)

Việt Nam chính thức đảm nhận vai trò Chủ tịch luân phiên ASEAN từ ngày 1-1-2020, đồng thời đảm nhiệm Ủy viên không thường trực HĐBA/LHQ. Với hai vai trò, Việt Nam có cơ hội thuận lợi để thể hiện vị thế lãnh đạo của mình trên phạm vi toàn cầu, đồng thời giúp mở rộng và khẳng định vai trò trung tâm của ASEAN trên trường quốc tế. Việt Nam đóng góp không chỉ tiếng nói của mình, mà còn cho cả Cộng đồng ASEAN ở một diễn đàn quan trọng tầm cỡ toàn cầu.

Việt Nam đã thể hiện rõ vai trò ngoại giao tích cực: duy trì khu vực hoà bình và ổn định; bảo vệ lợi ích của Hiệp hội; xây dựng kế hoạch mang lại động lực giúp ASEAN đối phó với các khó khăn và những thách thức mới nảy sinh.

Với việc gia nhập ASEAN, lòng tin giữa Việt Nam với các nước láng giềng được nâng lên rõ rệt. Hội nhập của Việt Nam hiệu quả hơn, không chỉ là hội nhập khu vực mà là hội nhập thế giới, trong đó có bước ngoạt Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Trong ảnh: Trước sự chứng kiến của Phó Thủ tướng Phạm Gia Khiêm, Tổng Giám đốc WTO Pascal Lamy trao các văn kiện về việc kết nạp Việt Nam trở thành thành viên chính thức thứ 150 của WTO cho Bộ trưởng Thương mại Việt Nam Trương Đình Tuyển, tại buổi lễ kết nạp Việt Nam vào WTO, ngày 7/11/2006, tại trụ sở WTO ở Geneva (Thụy Sĩ). (Ảnh: AFP/TTXVN)
Với việc gia nhập ASEAN, lòng tin giữa Việt Nam với các nước láng giềng được nâng lên rõ rệt. Hội nhập của Việt Nam hiệu quả hơn, không chỉ là hội nhập khu vực mà là hội nhập thế giới, trong đó có bước ngoạt Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Trong ảnh: Trước sự chứng kiến của Phó Thủ tướng Phạm Gia Khiêm, Tổng Giám đốc WTO Pascal Lamy trao các văn kiện về việc kết nạp Việt Nam trở thành thành viên chính thức thứ 150 của WTO cho Bộ trưởng Thương mại Việt Nam Trương Đình Tuyển, tại buổi lễ kết nạp Việt Nam vào WTO, ngày 7/11/2006, tại trụ sở WTO ở Geneva (Thụy Sĩ). (Ảnh: AFP/TTXVN)

Bước sang năm 2020, ASEAN đã đi được nửa chặng đường triển khai Kế hoạch xây dựng Cộng đồng ASEAN 2015-2025, ASEAN đã trở thành một động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển của kinh tế thế giới; một lực lượng nòng cốt trong kiến tạo cấu trúc khu vực ở châu Á – Thái Bình Dương; và là một đối tác hợp tác quan trọng cho nhiều hợp tác liên khu vực. Tuy vậy, bối cảnh mới đang đặt ASEAN trước nhiều khó khăn, thách thức mới.

Khó khăn lớn nhất của ASEAN là tình trạng phát triển bị chậm lại, trì trệ, khó khăn, thậm chí rơi vào khủng hoảng ở từng quốc gia thành viên và mất cân đối trong phát triển giữa các nước thành viên, do dịch bệnh Covid-19 và các vấn đề an ninh phi truyền thống tạo ra. Các tác động tiêu cực này đang kìm hãm các hợp tác nội khối và ngăn cản các hợp tác đối ngoại đa phương của ASEAN.

Thách thức lớn nhất của ASEAN là làm sao duy trì được sự đoàn kết, tiếp tục có được tiếng nói chung trong nhiều vấn đề ở khu vực, vượt qua được sức ép phân hóa của các nước lớn, trong cục diện mới với sự cạnh tranh chiến lược ngày càng căng thẳng, khó lường giữa các nước lớn.

Trong bối cảnh như vậy, vấn đề then chốt của ASEAN hiện nay và thời gian tới là: (i) tăng cường đoàn kết, thống nhất nội khối; (ii) duy trì hoà bình, ổn định để phát triển; (iii) thúc đẩy liên kết, kết nối trong khu vực; và (iv) đẩy mạnh việc xây dựng Cộng đồng.

Xuất phát từ các thách thức đặt ra cho ASEAN cũng như căn cứ yêu cầu, nhiệm vụ về xây dựng Cộng đồng ASEAN, Việt Nam đã lựa chọn Chủ đề cho năm Chủ tịch ASEAN 2020 là “Gắn kết và Chủ động thích ứng”. “Gắn kết” và “thích ứng” là hai thành tố có tính giao thoa, bổ trợ chặt chẽ cho nhau. Một Cộng đồng ASEAN gắn kết và phát triển mới có thể chủ động thích ứng các yếu tố tác động từ bên ngoài và ngược lại, chủ động thích ứng hiệu quả sẽ giúp ASEAN trở thành một khối gắn kết chặt chẽ.

Để củng cố vị thế và nâng tầm vai trò của mình, Việt Nam có trách nhiệm cùng các nước ASEAN khác, thứ nhất, phải duy trì phương cách ASEAN với các nguyên tắc cơ bản của Hiệp hội, đặc biệt tăng cường các hoạt động tham vấn trên cơ sở đồng thuận, nhằm đảm bảo ASEAN tiếp tục là một Cộng đồng đoàn kết.

Một Cộng đồng ASEAN gắn kết và phát triển mới có thể chủ động thích ứng các yếu tố tác động từ bên ngoài và ngược lại, chủ động thích ứng hiệu quả sẽ giúp ASEAN trở thành một khối gắn kết chặt chẽ.

Thứ hai, cần rà soát các cơ chế hợp tác, các dự án hợp tác, giải quyết những tồn tại, bất cập, chú trọng hơn hiệu quả hoạt động của các cơ chế, các dự án hợp tác thì mới tạo được niềm tin và động lực gắn kết ASEAN hơn.

Thứ ba, thúc đẩy hơn nữa các quan hệ đối ngoại của ASEAN, với các đối tác bên ngoài, để tranh thủ sự ủng hộ, nhưng quan trọng hơn là phải tạo ra sự giao thoa lợi ích thì mới tăng được sự can dự tích cực của các quốc gia, nhất là các nước lớn như Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc, Nga… thúc đẩy các lợi ích của đất nước và của ASEAN.

Thứ tư, thúc đẩy các hợp tác đa phương của ASEAN trong các lĩnh vực mới về kinh tế số, khoa học kỹ thuật và công nghệ số, nhằm duy trì ASEAN là một khu vực kinh tế năng động trên thế giới, đồng thời tạo ra sức sống mới cho Cộng đồng ASEAN.

Thứ năm, Việt Nam phải cùng các nước ASEAN, các nước có tranh chấp và các nước có lợi ích ở Biển Đông, thúc đẩy hoàn thiện Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC), làm nền tảng để ASEAN tiếp tục đối thoại cân bằng với các nước lớn, duy trì được vai trò trung tâm trong các cấu trúc khu vực cũng như duy trì được hoà bình và ổn định lâu dài ở khu vực.

Đại sứ, Tiến sĩ Luận Thuỳ Dương (Học viện Ngoại giao). Ảnh: Nhân vật cung cấp.
Đại sứ, Tiến sĩ Luận Thuỳ Dương (Học viện Ngoại giao). Ảnh: Nhân vật cung cấp.

Thứ sáu, Việt Nam phải cùng các nước ASEAN thúc đẩy vai trò của chủ nghĩa đa phương, Hiến chương Liên Hợp Quốc và các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế vì một thế giới hòa bình, công bằng và tốt đẹp hơn. Đặc biệt, phải tăng cường hiệu quả hợp tác và quan hệ Đối tác toàn diện giữa ASEAN và Liên Hợp Quốc, vì lợi ích chung của các nước ASEAN và cộng đồng quốc tế.

Như vậy, quyết định tham gia ASEAN thể hiện khả năng nắm bắt được sự phát triển của xu thế toàn cầu hóa gắn với khu vực hóa của Việt Nam. Tham gia ASEAN mang lại nhiều lợi ích cho Việt Nam và lợi ích gắn liền với trách nhiệm. Việt Nam là một thành viên có trách nhiệm trong ASEAN. Vai trò kép trong ASEAN và trong Liên Hợp Quốc đang tạo cho Việt Nam nhiều cơ hội nâng cao vị thế, uy tín, cũng như thể hiện năng lực là thành viên có trách nhiệm trên trường quốc tế. Đây cũng là cơ hội để Việt Nam có được nhiều lợi ích trong việc tăng cường quan hệ song phương với nước lớn và huy động được nhiều nguồn lực phát triển đất nước.

Tiến sĩ Luận Thuỳ Dương là chuyên gia nghiên cứu Đông Nam Á và ASEAN, từng giữ cương vị Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Việt Nam tại Myanmar.Bà là tác giả cuốn sách “Kênh đối thoại không chính thức về an ninh và chính trị: Kênh 2 của ASEAN”, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia năm xuất bản 2010, và sách “Cộng đồng Văn hóa xã hội ASEAN: Tầm nhìn tới 2025”, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia-Sự thật xuất bản 2017, đồng tác giả cuốn sách “150 câu hỏi và đáp về ASEAN: Hiến chương ASEAN và Cộng đồng ASEAN”, Nhà xuất bản Thế giới xuất bản năm 2010.

Vai trò của Việt Nam

tại ASEAN trong mắt các chuyên gia quốc tế

Hoàng Long-Vi Diệu

Năm kỷ niệm 25 năm Việt Nam gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á cũng là năm mà Hà Nội giữ vai trò Chủ tịch ASEAN, với chương trình nghị sự gồm nhiều vấn đề và thách thức, nhất là trong bối cảnh đại dịch COVID-19 làm chao đảo toàn thế giới. Vậy Việt Nam đã đảm nhiệm vai trò này như thế nào, đóng góp của Việt Nam trong 25 năm qua cho ASEAN ra sao đã được các phóng viên thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tổng hợp một cách khách quan, từ các chuyên gia hàng đầu của khu vực và thế giới.

Trong 25 năm qua, Việt Nam đã đảm bảo nền chính trị ổn định và một nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng cao, từ đó có nền tảng vững chắc để tạo ra những đóng góp ý nghĩa cho ASEAN và sự phát triển của Hiệp hội.

Theo Giáo sư Thayer, Đại học New South Wales, Việt Nam đã có ít nhất bốn đóng góp lớn cho ASEAN.

Thứ nhất, vào năm 1998, khi làm Chủ tịch ASEAN, Việt Nam đã soạn thảo Kế hoạch hành động Hà Nội để thúc đẩy sự phục hồi sau cuộc khủng hoảng tài chính châu Á.

Cùng với những nỗ lực khác, Kế hoạch này nhằm khắc phục khoảng cách phát triển giữa các quốc gia thành viên ASEAN.

Thứ hai, vào năm 2010, khi Việt Nam đảm nhiệm vai trò Chủ tịch ASEAN, Việt Nam đã thúc đẩy những gì các nhà quan sát ngoại giao gọi là “văn hóa thực hiện.”

Nói cách khác, Việt Nam đã thúc đẩy việc hoàn thành các hoạt động thiết thực sau khi ASEAN thông qua các tuyên bố và kế hoạch hành động.

Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, Chủ tịch ASEAN 2020 chủ trì Hội nghị trực tuyến Cấp cao đặc biệt ASEAN về ứng phó dịch bệnh COVID-19, sáng 14/4/2020, tại Hà Nội. (Ảnh: Thống Nhất/TTXVN)
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, Chủ tịch ASEAN 2020 chủ trì Hội nghị trực tuyến Cấp cao đặc biệt ASEAN về ứng phó dịch bệnh COVID-19, sáng 14/4/2020, tại Hà Nội. (Ảnh: Thống Nhất/TTXVN)

Thứ ba, Việt Nam đã sử dụng kinh nghiệm ngoại giao của mình để thúc đẩy quan hệ ASEAN với các cường quốc.

Việt Nam đã tổ chức Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng đầu tiên. Việt Nam cũng thúc đẩy thành công việc mở rộng thành viên Hội nghị thượng đỉnh Đông Á, bao gồm thêm cả Liên bang Nga và Mỹ.

Thứ tư, Việt Nam đã thể hiện trò quan trong việc ASEAN xử lý các tranh chấp ở Biển Đông giữa các thành viên và Trung Quốc. Việt Nam ủng hộ mạnh mẽ Tuyên bố ứng xử của các bên ở Biển Đông năm 2002.

Mới đây nhất, trong năm 2020, với tư cách là Chủ tịch ASEAN lần thứ ba, sự lãnh đạo của Việt Nam đã mang lại sự thừa nhận mạnh mẽ đối với Công ước Liên hợp quốc về Luật biển (UNCLOS 1982) tại Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 36.

Theo Tuyên bố của Chủ tịch Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 36, UNCLOS 1982 đặt ra khuôn khổ pháp lý cho tất cả các hoạt động trên biển và đại dương.

Theo ông Ahmad Ibrahim Almutaqqi, Giám đốc Chương trình nghiên cứu ASEAN thuộc Trung tâm Habibie, kể từ khi gia nhập ASEAN, Việt Nam ngày càng hòa nhập sâu rộng với nền kinh tế thế giới. Đến nay, Việt Nam đã mở rộng cánh cửa với thương mại tự do và hiện là một phần quan trọng trong chuỗi giá trị toàn cầu.

Ông Ibrahim khẳng định xu thế này rất giống với những gì mà dự án hội nhập khu vực ASEAN đang cố hướng tới và Việt Nam rõ ràng đang được hưởng lợi từ hội nhập.

Theo ông “chúng ta đang chứng kiến một Việt Nam tự tin hơn trên vũ đài thế giới và có những đóng góp quan trọng cho khu vực mỗi khi giữ chức Chủ tịch của ASEAN.”

Nhà nghiên cứu Indonesia cũng cho rằng điều đáng khích lệ là Việt Nam ngày càng được xem là một trong những nhà lãnh đạo của ASEAN. Trong một thời gian dài, Indonesia từng luôn được coi là nhà lãnh đạo tự nhiên của ASEAN song thật tốt khi Việt Nam cũng đang đóng góp và Jakarta có thể tin tưởng Hà Nội để bảo vệ ASEAN.

Đánh giá về vai trò và vị trí của ASEAN sau 53 năm xây dựng và phát triển, học giả kỳ cựu này cho rằng thành tựu lớn nhất của ASEAN là giữ được hòa bình và ổn định trong khu vực.

Hội nghị trực tuyến Cấp cao đặc biệt ASEAN về ứng phó dịch bệnh COVID-19, sáng 14/4/2020, tại Hà Nội. (Ảnh: Thống Nhất/TTXVN)
Hội nghị trực tuyến Cấp cao đặc biệt ASEAN về ứng phó dịch bệnh COVID-19, sáng 14/4/2020, tại Hà Nội. (Ảnh: Thống Nhất/TTXVN)

Theo ông Ibrahim, đây không phải là “kỳ tích tầm thường” do tính đa dạng của khu vực Đông Nam Á, với nhiều tranh chấp biên giới chưa được giải quyết, cũng như việc các cường quốc thường sử dụng khu vực này như một “đấu trường” cạnh tranh địa chiến lược.

Tiến sỹ Hoo Chiew-Ping – tiến sỹ Ngeow Chow Bing (Malaysia): Việt Nam góp phần vào phép màu ASEAN

Tiến sỹ Hoo Chiew-Ping, giảng viên cao cấp về nghiên cứu chiến lược và quan hệ quốc tế, Đại học Quốc gia Malaysia và tiến sỹ Ngeow Chow Bing, Giám đốc Viện Nghiên cứu Trung Quốc, Đại học Malaya đã có chung nhận định như vậy khi đánh giá về ai trò của Việt Nam trong ASEAN.

Đến nay, Việt Nam đã mở rộng cánh cửa với thương mại tự do và hiện là một phần quan trọng trong chuỗi giá trị toàn cầu.

Tiến sỹ Hoo Chiew-Ping cho rằng từ khi gia nhập ASEAN đến nay, Việt Nam đã có thể tối đa hóa lợi ích của các nền tảng ASEAN, trong đó có hội nhập khu vực, sự gắn kết chặt chẽ trong khu vực và hòa giải chính trị không chỉ ở cấp độ đối thoại nội bộ ASEAN mà còn đối thoại với các đối tác ASEAN.

Trong những thập kỷ qua, Việt Nam là quốc gia luôn ủng hộ một cách nhất quán các thể chế ASEAN và góp phần tăng cường quan hệ đối tác chiến lược với các đối tác đối thoại của ASEAN như Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Hàn Quốc và Liên minh châu Âu (EU). Việc gia nhập ASEAN đã giúp Việt Nam hội nhập quốc tế, trong khi Việt Nam cũng góp phần vào những thành công của ASEAN.

Về phần mình, tiến sỹ Ngeow Chow Bing cũng nhận định Việt Nam gia nhập ASEAN cho thấy một sự thay đổi rất đáng kể.

Theo tiến sỹ Ngeow Chow Bing, động thái này rất quan trọng vì nó bắt đầu quá trình ASEAN đưa các nước Đông Nam Á hoạt động theo một trật tự.

Đối với việc Việt Nam đảm nhận cương vị Chủ tịch luân phiên ASEAN trong bối cảnh đại dịch COVID-19 tác động mạnh mẽ tới khu vực và thế giới, tiến sỹ Ngeow Chow Bing cho rằng Việt Nam đã làm rất tốt trong việc kiểm soát đại dịch và xứng đáng được ca ngợi và chúc mừng như vậy.

Với vai trò là Chủ tịch ASEAN năm nay, Việt Nam được kỳ vọng sẽ khuyến khích các quốc gia thành viên khác đầu tư nhiều hơn vào hợp tác nội khối ASEAN, vì khu vực này sẽ là mô hình đi đầu trong ứng phó với đại dịch, nhờ sự phục hồi nhanh chóng so với các khu vực khác.

Đại sứ-Trưởng phái đoàn thường trực Philippines tại ASEAN, ông Noel Servigon, đánh giá Việt Nam đã tích cực đưa ra nhiều sáng kiến quan trọng, đồng thời dẫn dắt các nỗ lực tiếp tục làm phong phú thêm cho chương trình nghị sự và kinh nghiệm của ASEAN.

Theo Đại sứ Noel, các tác động tích cực từ nhiệm kỳ Chủ tịch ASEAN 2010 của Việt Nam với chủ đề “Hướng tới Cộng đồng ASEAN: Từ tầm nhìn đến hành động” vẫn tiếp tục lan tỏa cho đến nay, trong đó có việc thúc đẩy Hiệp ước khu vực Đông Nam Á không có vũ khí hạt nhân tại các diễn đàn đa phương, tăng cường Hội nghị cấp cao Đông Á với việc kết nạp thêm các quốc gia không phải là thành viên ASEAN, dẫn dắt các cuộc thảo luận về nỗ lực khôi phục và duy trì tài chính y tế của khu vực vốn đang phục hồi từ cuộc khủng hoảng tài chính, thúc đẩy phát triển bền vững, thu hẹp khoảng cách phát triển trong ASEAN, đẩy mạnh phát triển cơ sở hạ tầng và kết nối ASEAN…

Về vai trò và sự đóng góp của Việt Nam sau 25 năm gia nhập ASEAN, Đại sứ Noel cho biết lần đầu tiên ông đến Việt Nam là vào tháng 12/1998, khi Việt Nam lần đầu tiên tổ chức Hội nghị cấp cao ASEAN, chỉ 3 năm sau khi gia nhập ASEAN.

Sau đó 18 năm, ông Servigon trở thành Đại sứ Philippines tại Việt Nam và đã trực tiếp chứng kiến những thành quả to lớn mà Việt Nam đã đạt được trong khoảng thời gian đó.

Và khi ASEAN tổ chức “Năm Vàng 2017” nhân kỷ niệm 50 năm thành lập, ông đã cảm thấy “ấm lòng” khi được chứng kiến tâm trạng hồ hởi rộng khắp ở tất cả các tầng lớp nhân dân Việt Nam. Từ những gì quan sát được, ông cho rằng người dân Việt Nam thực sự gắn bó với ASEAN và tham gia vào cộng đồng ASEAN “ở mức độ cao nhất.”

Đánh giá về cương vị Chủ tịch ASEAN 2020, cũng như những công việc mà Việt Nam cần làm để tiếp tục xây dựng Cộng đồng ASEAN, Đại sứ Noel cho rằng năm nay ASEAN có nhiệm vụ đàm phán nhiều Kế hoạch hành động cho giai đoạn tiếp theo với các nước đối tác đối thoại, cũng như với Liên hợp quốc.

Ông nhấn mạnh Philippines đánh giá cao sự lãnh đạo của Việt Nam nhằm đảm bảo các Kế hoạch hành động này được hoàn tất và góp phần tăng cường hơn nữa quan hệ đối ngoại của ASEAN, cũng như duy trì vai trò trung tâm của ASEAN.

Đại sứ Noel cũng nhấn mạnh rằng thành công đáng chú ý của Việt Nam trong việc ngăn chặn đại dịch đã trở thành hình mẫu không chỉ trong ASEAN mà cả trên toàn thế giới, đồng thời cho rằng các nỗ lực phối hợp trong năm nay sẽ giúp đảm bảo tất cả các quốc gia thành viên ASEAN vươn lên mạnh mẽ hơn và được trang bị tốt hơn để ứng phó và phục hồi sau các đại dịch tương lai.

Tiến sỹ Balaz Szanto, giảng viên Bộ môn Quan hệ Quốc tế, Đại học Webster của Thái Lan, đánh giá từ khi trở thành thành viên ASEAN, Việt Nam đã thể hiện vai trò rất tích cực trong việc xây dựng cộng đồng chung, với nhiều sáng kiến mang tính xây dựng và có tính khả thi cao.

Theo tiến sỹ Szanto, trong những năm gần đây, với vị thế ngày càng được nâng cao, Việt Nam đã không ngừng thể hiện vai trò dẫn dắt trong diễn đàn khu vực quan trọng này.

“Tôi kỳ vọng Việt Nam sẽ tập hợp được một tiếng nói thống nhất trong ASEAN, tạo thành nền tảng để giải quyết tranh chấp ở Biển Đông một cách hòa bình, dựa trên luật pháp quốc tế”

Chuyên gia tin tưởng Việt Nam, với tư cách là nước Chủ tịch ASEAN trong năm 2020, sẽ huy động được năng lực hành động tập thể của khối, tạo ra cơ chế thúc đẩy sự hùng cường chung của các nước thành viên để không ai bị bỏ lại phía sau.

Liên quan tới an ninh hàng hải ở khu vực, tiến sỹ Szanto đánh giá Việt Nam giữ vai trò quan trọng trong lĩnh vực này. Ông kỳ vọng Việt Nam sẽ tập hợp được một tiếng nói thống nhất trong ASEAN, tạo thành nền tảng để giải quyết tranh chấp ở Biển Đông một cách hòa bình, dựa trên luật pháp quốc tế. Sự đoàn kết, tạo thành một thể thống nhất sẽ là đòn bẩy quan trọng để đạt được mục tiêu trên.

Tiến sỹ Hoe Ee Khor, nhà kinh tế trưởng Văn phòng nghiên cứu kinh tế vĩ mô ASEAN+3, đánh giá, kể từ khi gia nhập ASEAN, Việt Nam đã bắt đầu tiến hành một số cải cách kinh tế và làm sâu sắc các mối quan hệ kinh tế của mình với phần còn lại của thế giới.

Một trong những sự kiện có ý nghĩa then chốt là Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) vào năm 2007. Sự kiện này đem lại kết quả là làn sóng đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng từ khoảng 3 tỷ USD năm 1995 lên 20 tỷ USD vào năm 2019.

Việt Nam đã sử dụng thành công lực đòn bẩy của dòng đầu tư này vào các động cơ xuất khẩu, đặc biệt là ngành công nghiệp điện tử, giúp Việt Nam trở thành một trong những nước có tỷ lệ tăng trưởng kinh tế cao nhất trong khu vực, trung bình khoảng 6,3% trong 10 năm qua.

Kết quả là thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam đã tăng gấp gần 10 lần từ khoảng 277 USD năm 1995 lên 2.715 USD vào năm 2019, và giờ đây là một trong những nền kinh tế lớn nhất của ASEAN.

Người đứng đầu các phái đoàn ASEAN SOM chụp ảnh tại cuộc họp.
Người đứng đầu các phái đoàn ASEAN SOM chụp ảnh tại cuộc họp.

Những thành tựu kinh tế ấn tượng của Việt Nam có được từ những nỗ lực của các nhà chức trách nhằm bãi bỏ các quy định và giảm bớt phí kinh doanh trong vài thập kỷ qua. Đồng thời, sự tái bố trí tài sản các doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước đã đem lại hiệu quả lớn hơn và tăng cường sự tham gia của khu vực tư nhân trong nước vào nền kinh tế, điển hình là các công ty lớn của Việt Nam như Vingroup và Vietjet Air.

Lĩnh vực chế tạo sản xuất của Việt Nam đã trở thành một phần then chốt trong chuỗi giá trị khu vực, đặc biệt là lĩnh vực điện tử

Ngoài phát triển kinh tế, Việt Nam đã tăng cường mạng lưới an sinh xã hội thông qua những sự cải thiện về hệ thống lương hưu và y tế.

Khảo sát gần đây của Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) về lương hưu của 47 quốc gia cho thấy trong khi diện bao phủ của hệ thống lương của Việt Nam vẫn còn hạn chế, nhưng lợi ích lương hưu tương đối cao, 75% mức lương trong thời gian đi làm.

Từ năm 2002 đến 2018, hơn 45 triệu người đã thoát nghèo, với tỷ lệ nghèo đói giảm từ hơn 70% xuống dưới 6% và sự tăng nhanh của tầng lớp trung lưu.

Cũng theo Tiến sỹ Hoe Ee Khor, trong 25 năm qua, Việt Nam đã ngày càng hội nhập vào nền kinh tế khu vực và toàn cầu. Lĩnh vực chế tạo sản xuất của Việt Nam đã trở thành một phần then chốt trong chuỗi giá trị khu vực, đặc biệt là lĩnh vực điện tử. Sự tham gia của Việt Nam trong chuỗi giá trị khu vực đã tăng từ 26,4% năm 2005 lên 33,9% năm 2015.

Hơn nữa, đối với các công ty từ các nền kinh tế khác trong khu vực, tầng lớp trung lưu đang phát triển mạnh và mức thu nhập tăng đã làm cho Việt Nam trở thành điểm đến có ý nghĩa cho nhu cầu cuối cùng đối với hàng hóa và dịch vụ.

Cuối cùng, tư cách thành viên của Việt Nam trong Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) và Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) được đề xuất làm nổi bật vai trò của Việt Nam trong cộng đồng khu vực trong việc hỗ trợ sự thịnh vượng chung thông qua dòng hàng hóa và dịch vụ.

Nền kinh tế Việt Nam bổ sung cho các nền kinh tế khác. Việt Nam có thể thu hút các ngành cần nhiều lao động từ Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và ASEAN 5 (Malaysia, Indonesia, Philippines, Singapore và Thái Lan) và sử dụng lực đòn bẩy đó để tham gia mạng lưới sản xuất khu vực.

Từ đó, Việt Nam đã và đang tiến lên chuỗi giá trị và gia tăng sức mạnh công nghiệp với xuất khẩu tương đương khoảng 100% tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Việt Nam cũng rất thành công trong phát triển lĩnh vực nông nghiệp và du lịch.

Quang cảnh cuộc họp
Quang cảnh cuộc họp

Những người thực hiện: Nguyễn Minh, Hữu Chiến, Nguyễn Thúy, Ngọc Quang, Hữu Kiên (Thông tấn xã Việt Nam).

Đại sứ Indonesia Ibnu Hadi

VIỆT NAM ĐÃ ĐÓNG GÓP RẤT NHIỀU CHO ASEAN

Hoàng Long-Vi Diệu

Indonesia là nước bạn bè truyền thống của Việt Nam, có sự tương đồng về quá trình đấu tranh giành độc lập dân tộc, có vai trò quan trọng tại Đông Nam Á.

Ngày 27/2/1959, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thăm hữu nghị chính thức Indonesia. Đây là chuyến thăm chính thức quốc gia Đông Nam Á đầu tiên của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Sau đó 3 tháng, Tổng thống Sukarno của Indonesia cũng đã có chuyến thăm chính thức đến Việt Nam.

Hai chuyến thăm lịch sử đã đặt nền móng vững chắc cho mối quan hệ hữu nghị thân thiết Việt Nam – Indonesia phát triển lâu bền. Các thế hệ đi sau tiếp tục xây dựng, vun đắp, với kết quả là việc đôi bên thiết lập quan hệ đối tác chiến lược vào năm 2013.

Nhân dịp 25 năm Việt Nam gia nhập ASEAN, phóng viên VietnamPlus đã có cuộc trò chuyện với Ngài Ibnu Hadi, Đại sứ Đặc mệnh toàn quyền Cộng hòa Indonesia tại Việt Nam, để thấy được bạn bè nhìn nhận về chúng ta ra sao sau quá trình hội nhập khu vực.

Đại sứ Indonesia tại Việt Nam Ibnu Hadi.
Đại sứ Indonesia tại Việt Nam Ibnu Hadi.

Theo quan điểm của ông, những đóng góp quan trọng nhất của Việt Nam cho cộng đồng ASEAN là gì?

Đại sứ Ibnu Hadi: Trước tiên, chúc mừng Việt Nam nhân dịp kỷ niệm 25 năm các bạn gia nhập ASEAN. Trong 25 năm qua, chúng ta đã chứng kiến rất nhiều hoạt động và đóng góp mà Việt Nam đã thực hiện.

Tôi cho rằng chúng ta có thể tổng kết các đóng góp ấy trong những lần Việt Nam ngồi ghế Chủ tịch ASEAN, với lần đầu vào năm 1998, lần thứ hai vào năm 2010 và mới nhất làtrong năm nay.

Năm 1998, Việt Nam đã đóng góp rất nhiều để có thể tạo ra sự đồng thuận trong việc hiện thực hóa Tầm nhìn ASEAN 2020. Về Tầm nhìn ASEAN 2020, chúng tôi đặt mục tiêu ASEAN với tư cách một tổ chức sẽ có quan điểm hướng ngoại, cùng nhau chung sống hòa bình, ổn định và thịnh vượng. Tôi đánh giá đó là một nền tảng vững chắc mà Việt Nam đã đóng góp xây dựng trong vai trò Chủ tịch.

Năm 2010, chúng ta thiết lập cơ chế Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN mở rộng (ADM+). Trước đó chúng ta chỉ có hội nghị bộ trưởng quốc phòng của các nước ASEAN. Nhưng từ năm 2010 chúng ta đã đồng ý mở rộng quy mô hội nghị thành ADM+, bao gồm các bạn bè chiến lược, đối tác chiến lược như Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Nga, Australia, Ấn Độ và một số đối tác khác.

Năm nay, 2020, là thời điểm rất đáng chú ý, một năm nhiều thách thức vì COVID-19, nhưng một lần nữa Việt Nam cho thế giới và cho chúng tôi thấy rằng các bạn đã xử lý dịch thành công. Nhờ thế mà chúng ta có thể thực hiện một cuộc trò chuyện như thế này mà không cần đeo khẩu trang, không cần giữ khoảng cách an toàn. Tất cả là nhờ chính quyền Việt Nam.

Năm nay ASEAN vẫn đạt được tiến triển, dù rằng phần lớn các cuộc họp phải tiến hành trên không gian mạng. Cuộc họp gần đây diễn ra vào cuối tháng 6 cũng diễn ra trực tuyến và đã đạt được tiến triển theo hướng xây dựng một cộng đồng gắn kết và chủ động thích ứng, cũng phù hợp với chủ đề của các bạn.

Vì thế, tôi tin Việt Nam đã đóng góp rất nhiều cho ASEAN. Chúng tôi rất mong chờ hội nghị tiếp theo, sẽ diễn ra vào tháng 11, và rất hy vọng sẽ có những thành tựu mới, không chỉ trong lĩnh vực chính trị và an ninhmà còn trên cả khía cạnh kinh tế, xã hội, văn hóa và mối quan hệ giữa con người với con người.

Sau khi kết thúc nhiệm kỳ Đại sứ Đặc mệnh toàn quyền Việt Nam tại Indonesia, nhà Ngoại giao Hoàng Anh Tuấn đã đảm nhiệm vai trò Phó Tổng thư ký Thường trực ASEAN. Trong ảnh: Đại sứ Hoàng Anh Tuấn trao quà tặng cho Bộ trưởng Ngoại giao Indonesia, bà Retno Marsudi thời điểm tháng 1/2018. (Ảnh: Trần Chiến/Vietnam+)
Sau khi kết thúc nhiệm kỳ Đại sứ Đặc mệnh toàn quyền Việt Nam tại Indonesia, nhà Ngoại giao Hoàng Anh Tuấn đã đảm nhiệm vai trò Phó Tổng thư ký Thường trực ASEAN. Trong ảnh: Đại sứ Hoàng Anh Tuấn trao quà tặng cho Bộ trưởng Ngoại giao Indonesia, bà Retno Marsudi thời điểm tháng 1/2018. (Ảnh: Trần Chiến/Vietnam+)

Ông có thể tổng kết về mối quan hệ giữa Việt Nam và Indonesia trong cộng đồng ASEAN suốt 25 năm qua? Chúng ta đã làm những gì cũng nhau để mang tới lợi ích cho cộng đồng ASEAN và sự hợp tác song phương trong tương lai sẽ như thế nào?

Trong mối quan hệ song phương, Indonesia và Việt Nam là các hàng xóm tốt. Chúng ta đã thiết lập mối quan hệ đối tác chiến lược vào năm 2013, bao gồm hợp tác chính trị và an ninh, kinh tế và kinh doanh, xã hội và văn hóa.

Ở cả ba cột trụ hợp tác này, chúng ta đã đạt được nhiều tiến triển, ví dụ như thương mại song phương, chúng ta đã đạt được mức hơn 9 tỷ USD. Khi tôi mới tới đây vào năm 2016, thương mại song phương chỉ là 5,6 tỷ USD, vì thế đã có sự tăng trưởng mạnh trong 4 năm qua nhờ mối quan hệ đối tác chiến lược.

Và không chỉ trong quan hệ kinh tế, trên mặt quan hệ chính trị và an ninh, chúng ta cũng có cơ chế để thường xuyên đối thoại về vấn đề quốc phòng. Chúng ta có sự tham vấn song phương diễn ra thường xuyên giữa ngoại trưởng hai nước, sau mỗi 2 năm.

Trong mối quan hệ hợp tác văn hóa xã hội song phương, chúng tôi muốn nâng cao quan hệ giữa con người với con người, sự kết nối trực tiếp, đặc biệt là các chuyến bay thẳng song phương. Trong 2-3 năm gần đây hai bên đã thành công trong việc thiết lập thêm nhiều chuyến bay thẳng. Trước kia chúng ta chỉ có 1 chuyến bay thẳng, nay đã có 3 chuyến bay thẳng nối Indonesia và Việt Nam. Hai bên đã có kế hoạch tổ chức thêm nhiều chuyến bay thẳng, nhưng không may điều này đã bị ảnh hưởng vì dịch COVID-19.

Tất cả những sự phát triển tích cực trong quan hệ song phương đã có đóng góp trực tiếp và gián tiếp tới sự thịnh vượng và giúp tăng vị thế của Indonesia trong cộng đồng ASEAN.

So sánh quy mô hai nền kinh tế của Việt Nam và Indonesia từ 2012 tới 2019. (Số liệu: Tổng cục thống kê Việt Nam (GSO), Tổng cục thống kê Indonesia (BPS))

Ông đánh giá thế nào về mối quan hệ giữa Việt Nam và Indonesia. Chúng ta nên làm gì để tăng cường quan hệ song phương, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế?

Trước tiên chúng tôi thực sự rất ấn tượng và rất vui khi chứng kiến Việt Nam phát triển kinh tế rất nhanh.

Trong những năm qua các bạn thường xuyên đạt mức tăng trưởng từ 6-7%. Năm ngoái mức tăng trưởng là 7%, nhưng năm nay do dịch COVID-19 hy vọng các bạn có thể đạt được mức 5%. Đó sẽ vẫn là một mức tăng trưởng rất lớn, rất nhiều cơ hội sẽ được tạo ra nhờ sự tăng trưởng này.

Tôi có thể thấy trước rằng quan hệ song phương giữa Indonesia và Việt Nam sẽ phát triển, thậm chí còn lớn và mạnh hơn trước đây, bất chấp dịch COVID-19.

Tôi tin rằng kinh tế số – tất cả các hoạt động làm ăn dựa trên nền tảng kỹ thuật số, trực tuyến – sẽ tăng trưởng mạnh, đặc biệt là trong thời dịch COVID-19. Indonesia hiện đã có vài doanh nghiệp số hoạt động tại Việt Nam như Traveloka hay GoViet, công ty địa phương của Gojek. Chúng tôi cũng có vài công ty trong ngành Công nghệ thông tin ở đây.

Vì thế tôi tin khi chúng ta tiến lên cùng nhau, kinh tế số sẽ đóng vai trò lớn hơn nhiều và Đại sứ quán Indonesia có trách nhiệm xúc tiến và khuyến khích thêm nhiều hoạt động kinh tế giữa hai quốc gia.

Cuộc họp lần thứ 23 nhằm chuẩn bị cho Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 36 và các cuộc họp cấp bộ trưởng.
Cuộc họp lần thứ 23 nhằm chuẩn bị cho Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 36 và các cuộc họp cấp bộ trưởng.

Hiện nay Trung Quốc và Mỹ đang xảy ra thương chiến. Có những ý kiến cho rằng dòng vốn đầu tư sẽ chảy khỏi Trung Quốc vào Việt Nam và Indonesia, biến hai nước thành đối thủ cạnh tranh. Ông nghĩ sao về điều này?

Có thể trên một số khía chúng ta sẽ cạnh tranh, nhưng trên các khía cạnh khác, chúng ta sẽ bổ trợ cho nhau. Ví dụ Indonesia đang có các doanh nghiệp hoạt động tại Việt Nam và các bạn đã thiết lập được nhiều thỏa thuận thương mại tự do (FTA), gần đây nhất là hiệp định EVFTA với Liên minh châu Âu. Chúng tôi có thể hưởng lợi từ các thỏa thuận như thế, nên các bên sẽ cùng có lợi.

Về chuyện chuyển dòng vốn, tôi nghĩ rằng đây chỉ là vấn đề logic trong tính toán kinh doanh. Ở Trung Quốc, cuộc thương chiến và tình hình hiện nay (dịch bệnh-PV) khiến chi phí sản xuất tăng lên, lương của người lao động cũng tăng lên, vì thế các công ty sẽ phải suy nghĩ tính toán xem họ muốn mở rộng hoạt động ở Trung Quốc hay quốc gia khác.

“Thương mại song phương đã đạt được mức hơn 9 tỷ USD. Khi tôi mới tới đây vào năm 2016, thương mại song phương mới chỉ là 5,6 tỷ USD” – Đại sứ Ibnu Hadi

Một số sẽ chọn việc di chuyển và lựa chọn thay thế mang tính logic dĩ nhiên là các khu vực nằm cách không quá xa Trung Quốc. Ở đây là các nước ASEAN.

Việt Nam có lợi thế chiến lược vì các bạn nằm gần hơn Trung Quốc, đặc biệt là khu vực miền Nam Trung Quốc. Vì thế nếu một số doanh nghiệp ở phía Nam Trung Quốc muốn di chuyển xuống Việt Nam thì cũng hợp lý, bởi khoảng cách địa lý.

Nhưng có thể trong một số tình huống, do tính chất của hoạt động kinh doanh, vị trí không phải yếu tố mang tính quyết định, ví dụ doanh nghiệp thấy thị trường nội địa quan trọng hơn, có thể họ sẽ chuyển tới Indonesia, bởi chúng tôi có 267 triệu dân.

Vì thế, còn tùy tình hình và phụ thuộc vào việc doanh nghiệp kinh doanh gì. Nhưng cơ bản tôi nghĩ chúng ta sẽ bổ trợ cho nhau và điều này cũng đồng nhất với mục tiêu của ASEAN, rằng khối sẽ trở thành một trung tâm sản xuất phục vụ cho các hoạt động đầu tư FDI.

Ông có gợi ý, đề xuất gì về sự hợp tác trong ASEAN để xây dựng một cộng đồng gắn kết và chủ động thích ứng?

Tôi nghĩ chủ đề cộng đồng gắn kết và chủ động thích ứng rất có liên quan trong giai đoạn hiện nay.

Việc xây dựng ASEAN như một cộng đồng thành công, một cộng đồng gắn kết và chủ động thích ứng không chỉ nằm trong mối quan hệ giữa các chính phủ mà quan trọng hơn là trong mối quan hệ cá nhân với cá nhân, sự liên hệ giữa con người với con người.

Cán cân thương mại song phương Việt Nam-Indonesia trong 3 năm gần đây (Số liệu: Tổng cục thống kê Việt Nam (GSO), Tổng cục thống kê Indonesia (BPS))

Chúng ta cần phải khuyến khích, thúc đẩy hơn nữa các bên liên quan trong ASEAN phải có thêm nhiều quan hệ trực tiếp, sự kết nối trực tiếp như vậy.

Cá nhân tôi, với tư cách Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Indonesia ở Việt Nam, thực sự muốn thúc đẩy, khuyến khích hơn nữa người Indonesia tới Việt Nam, không chỉ để làm ăn, không chỉ để du lịch mà còn có thể hợp tác trong lĩnh vực giáo dục. Ở chiều ngược lại, người Việt sẽ tới Indonesia nhiều hơn để làm ăn, du lịch và tham gia các hoạt động hợp tác khác.

Chúng tôi rất vui vì có mặt ở đây và hiện đang xúc tiến dạy ngôn ngữ Indonesia trên quy mô nhỏ. Chúng tôi đã triển khai từ tháng 10/2018 và chương trình đã chạy được hơn 1 năm. Chúng tôi hợp tác với một số đại học ở Hà Nội và TP HCM. Bản thân đại sứ quán cũng tổ chức một số khóa học. Tôi cho đây chỉ là một phần nhỏ của nỗ lực khuyến khích thêm nhiều hoạt động giao tiếp giữa người với người. Chúng tôi thực sự rất vui vì phản ứng nhận được cơ bản là tích cực.

Xin trân trọng cảm ơn Đại sứ!