Ngành gỗ

ttxvnsanxu-1582686366-35.jpg

Ngành chế biến gỗ và nội thất đặt mục tiêu xuất khẩu 20 tỷ USD vào năm 2025 và xa hơn là trở thành một trong những trung tâm chế biến gỗ lớn của thế giới. Thế nhưng, ngoài những lợi thế sẵn có, ngành chế biến gỗ cũng đang đối mặt với không ít thách thức về nguồn nguyên liệu, nhân lực cũng như liên kết chuỗi giá trị một cách chặt chẽ.

Để tạo được sự tăng trưởng đột phá về giá trị và phát triển bền vững, ngành gỗ cần có chiến lược giải quyết từ gốc các nút thắt trên với sự tham gia tích cực từ các nhân tố trong chuỗi cung ứng.

Năm 2019 vừa qua, trong khi nhiều mặt hàng nông thủy sản gặp khó khăn trong xuất khẩu thì gỗ và sản phẩm chế biến từ gỗ vẫn tiếp tục đạt được tốc độ tăng trưởng cao, trên 18%/năm và trở thành một trong những ngành hàng có kim ngạch xuất khẩu trên 10 tỷ USD. Chưa dừng lại ở đó, ngành chế biến gỗ và nội thất được dự báo sẽ còn nhiều dư địa để tăng trưởng ở cả thị trường trong nước lẫn xuất khẩu.

Lợi thế sản xuất và tiêu dùng trong nước

Ông Đỗ Xuân Lập, Chủ tịch Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam cho biết ngành chế biến gỗ hiện nay đang ở giai đoạn phát triển rất khởi sắc, thu hút sự quần tụ của hiệp hội ở nhiều địa phương tạọ nên quy mô lớn mạnh cả về sản xuất lẫn xuất khẩu. Cả nước có gần 5.000 doanh nghiệp, hộ gia đình đầu tư vào sản xuất, chế biến đồ gỗ xuất khẩu. Có được kết quả này là bởi Việt Nam có lợi thế về kinh nghiệm sản xuất cũng như nguồn nguyên liệu khá dồi dào.

Cùng chung nhận định, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Nguyễn Xuân Cường đánh giá chế biến và xuất khẩu gỗ là một trong những lĩnh vực có tốc độ phát triển nhanh nhất của ngành nông nghiệp thời gian qua. Về lịch sử, chế biến gỗ xuất phát từ ngành làm mộc truyền thống lâu đời và nhiều nghệ nhân khéo léo, tay nghề cao.

Trong khi đó, phân tích về lợi thế nguồn nguyên liệu, Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường cho biết hệ số che phủ rừng của Việt Nam hiện đã đạt trên 41%, đứng đầu Đông Nam Á. Trong tổng số 14,5 triệu ha diện tích đất rừng cả nước có hơn 4,3 triệu ha rừng trồng. Nhờ hiệu ứng từ sự phát triển ngành chế biến, xuất khẩu gỗ, những năm qua, thu nhập của người trồng rừng từng bước được cải thiện, từ đó mạnh dạn tái đầu tư vào trồng rừng.

Các doanh nghiệp chế biến gỗ, sản xuất nội thất của Việt Nam mới tập trung cho xuất khẩu mà bỏ ngỏ lượng lớn khách hàng ngay tại sân nhà

Với diện tích rừng trồng tăng đều qua từng năm, ngành lâm nghiệp không chỉ cung cấp nguyên liệu cho hoạt động sản xuất, chế biến đồ gỗ trong nước mà còn đóng góp vào xuất khẩu gỗ nguyên liệu và nhiều mặt hàng lâm sản giá trị khác. Ngoài những lợi thế về lịch sử và nguyên liệu thì các doanh nghiệp ngành gỗ cũng có sự nhạy bén và nắm bắt thị trường rất tốt.

Song song với lợi thế phát triển sản xuất, chế biến gỗ, Việt Nam cũng được đánh giá là thị trường tiêu thụ sản phẩm đồ gỗ, nội thất nhiều tiềm năng.

Theo ông Huỳnh Văn Hạnh, Phó Chủ tịch Hội Mỹ nghệ và Chế biến gỗ Thành phố Hồ Chí Minh, với dân số gần 100 triệu dân, quy mô thị trường của Việt Nam tương đương với 5-7 nước châu Âu gộp lại. Kinh tế Việt Nam cũng đang duy trì được tốc độ tăng trưởng tốt, kéo theo đó là sự phát triển của thị trường bất động sản, đặc biệt là các căn hộ khiến nhu cầu tiêu dùng đồ gỗ nội thất tăng cao. Quy mô thị trường tiêu dùng nội thất trong nước ước tính trị giá khoảng 5 tỷ USD, gần bằng 50% tổng kim ngạch xuất khẩu nhưng thực tế thời gian qua, các doanh nghiệp chế biến gỗ, sản xuất nội thất của Việt Nam mới tập trung cho xuất khẩu mà bỏ ngỏ lượng lớn khách hàng ngay tại sân nhà.

Sản xuất, chế biến gỗ xuất khẩu. (Ảnh: TTXVN)
Sản xuất, chế biến gỗ xuất khẩu. (Ảnh: TTXVN)

Đại diện Công ty Cozy Living chia sẻ, nhu cầu đối với nội thất căn hộ tại Việt Nam có xu hướng tăng trong những năm gần đây do đa phần gia đình trẻ tại các đô thị lớn đều chọn ở trong các chung cư. Mỗi gia đình có thể chi tới 300-400 triệu đồng cho khâu hoàn thiện nội thất. Các sản phẩm nội thất đơn lẻ với nhiều phân khúc giá khác nhau từ vài triệu đến hàng trăm triệu đồng/món đều có doanh số bán hàng tốt. Nhiều doanh nghiệp kinh doanh nội thất cũng cho biết với sự phát triển mạnh của các dự án bất động sản thời gian qua, mức độ tăng trưởng của mặt hàng nội thất đang đạt từ 20-30%/năm.

Trong khi đó, ông Nguyễn Chiến Thắng, Chủ tịch Hội đồng thành viên Công ty Scansia Pacific nhận định kinh tế phát triển, thu nhập được cải thiện nên người Việt Nam đang bắt đầu chú trọng hơn đến việc đầu tư cho tổ ấm và sẵn sàng chi trả nhiều hơn cho nội thất để có không gian sống tốt nhất.

Ngoài những sản phẩm gỗ dân dụng, nội thất thông thường thì phân khúc đồ nội thất cao cấp cho các khách sạn chính là “chiếc bánh ngon” để doanh nghiệp ngành chế biến gỗ và nội thất khai thác. Theo ước tính, trung bình mỗi năm Việt Nam xây dựng khoảng 1 triệu m2 khách sạn, nhà hàng có tiêu chuẩn từ 3-5 sao, kéo theo đó là nhu cầu sử dụng khối lượng lớn sản phẩm gỗ, nội thất tầm trung và tầm cao.

Tăng trưởng xuất khẩu khả quan

Thống kê của Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam cho thấy trong 2 thập kỷ trở lại đây, ngành chế biến và xuất khẩu gỗ đã có những bước phát triển đột phá. Nếu như năm 2000, giá trị kim ngạch xuất khẩu chỉ mới đạt 219 triệu USD năm 2000, thì đến năm 2019, con số xuất khẩu nhóm hàng lâm sản đã đạt hon 11,3 tỷ USD, trong đó gỗ và sản phẩm chế biến từ gỗ đã đạt kim ngạch xuất khẩu 10,5 tỷ USD, duy trì mức tăng trưởng hai con số trong nhiều năm.

Ông Nguyễn Quốc Khanh, Chủ tịch Hội Mỹ nghệ và Chế biến gỗ Thành phố Hồ Chí Minh thông tin sản phẩm đồ gỗ Việt Nam đã có mặt ở hơn 120 quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới nhưng dư địa xuất khẩu mặt hàng gỗ chế biến và nội thất vẫn còn rất lớn. Cụ thể, Việt Nam hiện đứng thứ 5 thế giới và đứng đầu khu vực Đông Nam Á về xuất khẩu đồ gỗ nhưng mới chỉ chiếm 6% thị phần đồ gỗ toàn cầu, trong khi doanh số ngành gỗ thế giới đang ở mức 450 tỷ USD và sẽ tiếp tục tăng trong những năm tới.

Việt Nam hiện là một trong 4 nhà cung cấp đồ nội thất phòng khách và phòng ăn chính cho EU, đồng thời cũng là nhà cung cấp mặt hàng đồ nội thất nhà bếp lớn thứ 8 của thị trường này

Theo ông Nguyễn Quốc Khanh, nhu cầu tiêu dùng đồ gỗ của thế giới không chỉ gói gọn trong các sản phẩm bàn ghế, nội thất gia đình mà còn có các sản phẩm gỗ phục vụ công trình, khách sạn, trường học… Ngoài thị trường lớn nhất là Mỹ, xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ đang có cơ hội tăng trưởng mạnh ở một số thị trường quan trọng khác.

Xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ sang Nhật Bản và Canada trong năm 2019 tăng trưởng tốt, ngoài nhu cầu gia tăng, còn có sự đóng góp của việc bước đầu tận dụng hiệu quả các cam kết từ Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP). Việc cam kết giảm thuế quan của các nước thành viên CPTPP đã làm tăng khả năng cạnh tranh của gỗ và sản phẩm gỗ Việt Nam so với các nguồn cung khác ngoài CPTPP, giúp cho gỗ và sản phẩm gỗ của Việt Nam tăng thị phần tại các thị trường này.

Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cũng đặt kỳ vọng nâng cao giá trị và thị phần đồ gỗ của Việt Nam tại EU trong thời gian tới, khi Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam-EU (EVFTA) đi vào thực thi. Theo thống kê từ Bộ Công Thương, Việt Nam hiện là một trong 4 nhà cung cấp đồ nội thất phòng khách và phòng ăn chính cho EU, đồng thời cũng là nhà cung cấp mặt hàng đồ nội thất nhà bếp lớn thứ 8 của thị trường này.

Tuy nhiên, lượng đồ gỗ nội thất nhập khẩu từ Việt Nam mới chỉ chiếm 1,2% tổng lượng sản phẩm đồ gỗ nhập khẩu của EU. Tín hiệu đáng mừng là các doanh nghiệp nhập khẩu, phân phối của EU cũng đánh giá cao chất lượng sản phẩm đồ gỗ, nội thất của Việt Nam nhờ có sự cải tiến công nghệ vượt trội so với những quốc gia châu Á khác và khả năng đáp ứng các tiêu chuẩn ngày càng cao của người tiêu dùng./.

Công ty TNHH chế biến gỗ xuất khẩu Hoàn Vũ sản xuất bàn ghế xuất khẩu sang châu Âu. (Ảnh: Thanh Long/TTXVN)
Công ty TNHH chế biến gỗ xuất khẩu Hoàn Vũ sản xuất bàn ghế xuất khẩu sang châu Âu. (Ảnh: Thanh Long/TTXVN)

Không ít thách thức

Lợi thế và tiềm năng đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng của ngành chế biến gỗ, nội thất đã được khẳng định, tuy nhiên nhiều doanh nghiệp trong ngành cho biết thách thức lớn nhất đang đặt ra cho ngành chế biến gỗ là nguồn nhân lực đang có xu hướng khan hiếm dần, dịch chuyển sang nhiều ngành khác. Bên cạnh đó, vấn đề chất lượng nguồn nguyên liệu và chuỗi liên kết cũng là những “nút thắt” cần được tháo gỡ.

Khan hiếm nguồn nhân lực

Trong vài năm trở lại đây cùng với mức tăng trưởng “nóng,” ngành chế biến gỗ đang đối mặt với thách thức lớn về nguồn nhân lực, bao gồm cả lao động phổ thông lẫn đội ngũ kỹ sư.

Chia sẻ về thực trạng trên, ông Lê Xuân Quân, Tổng giám đốc Công ty cổ phần Kiến trúc nội thất NANO, Chủ tịch Hội Gỗ và Thủ công mỹ nghệ tỉnh Đồng Nai cho biết với chỉ số tăng trưởng sản xuất và xuất khẩu ở mức cao hiện nay, đòi hỏi số lượng lao động trực tiếp cũng phải tăng theo tỷ lệ thuận. Tuy nhiên, hiện nay,  doanh nghiệp rất khó tuyển người, cả công nhân lẫn kỹ sư. Nguyên nhân là do số lượng doanh nghiệp tăng nhanh, kể cả doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, tạo nên sự cạnh tranh trong thu hút lao động, kéo giá nhân công khởi điểm tăng thêm từ 10-20%.

Theo ông Lê Xuân Quân, mặc dù đã chấp nhận trả lương cao hơn nhưng doanh nghiệp vẫn không tuyển được đủ nhân lực đáp ứng yêu cầu sản xuất do người lao động ngày càng có nhiều lựa chọn việc làm hơn trong khi ngành chế biến đồ gỗ được coi là công việc khá nặng nhọc, môi trường làm việc ít cạnh tranh so với các ngành thương mại, dịch vụ khác. Cả nước chỉ có 4 trường đại học đào tạo chuyên ngành chế biến lâm sản, chỉ tiêu tuyển sinh mỗi năm chỉ khoảng 300 sinh viên và 7 trường dạy nghề với khoảng 600 học viên. Đó là lý do đang thiếu trầm trọng đội ngũ kỹ sư lâm nghiệp, kỹ sư chế biến gỗ, doanh nghiệp phải tự đào tạo, vừa tốn chi phí vừa mất thời gian.

Cùng quan điểm, ông Nguyễn Chiến Thắng, Chủ tịch Hội đồng thành viên Công ty Scansia Pacific nêu vấn đề với đà phát triển nhanh, nhu cầu nhân lực của ngành gỗ không chỉ là lao động phổ thông mà cần ở tất cả các khâu từ thiết kế, sáng tạo đến kinh doanh, marketing, tài chính…

Chế biến gỗ xuất khẩu tại Công ty Cổ phần Woodsland Tuyên Quang. (Nguồn: TTXVN)
Chế biến gỗ xuất khẩu tại Công ty Cổ phần Woodsland Tuyên Quang. (Nguồn: TTXVN)

“Khác với quan điểm cho rằng doanh nghiệp có thể ứng dụng công nghệ để giảm áp lực về lao động, các doanh nghiệp ngành gỗ muốn ứng dụng công nghệ càng cần có nhân lực, đặc biệt là lao động có tay nghề, có khả năng vận hành hiệu quả dây chuyền sản xuất mới. Lao động có tay nghề ngày càng hiếm, sự cạnh tranh gia tăng khiến doanh nghiệp khó giữ chân lao động có kinh nghiệm trong khi chưa có giải pháp thu hút lứa lao động kế cận. Điều này đã tạo ra gọng kìm đối với ngành chế biến gỗ Việt Nam,” ông Nguyễn Chiến Thắng chia sẻ.

Ông Đỗ Văn Dũng, Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh cho rằng ngành gỗ đang “khát” nhân lực ở mọi trình độ. Điều đó xuất phát từ quan điểm cho rằng ngành gỗ là phá rừng, thợ mộc là lao động chân tay, dẫn đến ít người quan tâm đến ngành học này. Bên cạnh đó, chương trình đào tạo khung còn nặng về lý thuyết, các trường thiếu cơ sở vật chất phục vụ thực hành đã ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng đào tạo. Do đó, số lượng lao động ngành gỗ vốn đã ít ỏi, khi ra trường lại chưa đáp ứng được yêu cầu công việc thực tế của doanh nghiệp.

Nhu cầu thực tế về lao động ngành chế biến gỗ, nội thất trong năm 2020 ước tính là khoảng 64.000 người có trình độ đại học, trên đại học và khoảng 267.000 công nhân kỹ thuật

Theo Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam, các doanh nghiệp, cơ sở chế biến gỗ đang thu hút khoảng 500.000 lao động trực tiếp; trong đó, lao động có trình độ đại học, kỹ sư chỉ chiếm khoảng 2-3%, công nhân kỹ thuật khoảng hơn 25%, còn lại là lao động phổ thông. Lực lượng lao động thiếu về lượng, yếu về chất nên năng suất lao động của ngành gỗ Việt Nam còn thấp, chỉ bằng 50% so với Philippines, 40% của Trung Quốc và bằng 20% của Liên minh châu Âu.

Trong khi đó, nhu cầu thực tế về lao động ngành chế biến gỗ, nội thất trong năm 2020 ước tính là khoảng 64.000 người có trình độ đại học, trên đại học và khoảng 267.000 công nhân kỹ thuật; dự kiến đến năm 2025 nhu cầu nguồn nhân lực tương ứng là gần 107.000 người có trình độ đại học và trên đại học cùng với 445.000 công nhân kỹ thuật.

Tổ chức sản xuất-chế biến còn lỏng lẻo

Diện tích rừng trồng và sản lượng gỗ nguyên liệu không ngừng tăng lên trong những năm qua đã tạo nền tảng khá tốt để các doanh nghiệp yên tâm đầu tư chế biến. Tuy nhiên, theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, nguyên liệu gỗ trong nước mới chỉ đáp ứng được 75% nhu cầu, còn lại phải nhập khẩu. Năm 2019, xuất khẩu dăm gỗ của Việt Nam đạt hơn 1,7 tỷ USD nhưng ngược lại, Việt Nam cũng phải nhập khẩu một lượng lớn gỗ nguyên liệu trị giá hơn 2,5 tỷ USD phục vụ chế biến. Cùng với đó, chất lượng nguyên liệu gỗ từ rừng trồng trong nước còn thấp do khai thác sớm, gỗ còn non.

Ông Huỳnh Văn Hạnh, Phó Chủ tịch Hội Mỹ nghệ và Chế biến gỗ Thành phố Hồ Chí Minh cho rằng chủng loại và chất lượng nguyên liệu gỗ của Việt Nam còn hạn chế. Cây trồng chủ lực mới chỉ có cao su và tràm, chưa đáp ứng được nguyên liệu sản xuất các mặt hàng cao cấp. Hiện nay, tình trạng “bán lúa non” nguyên liệu vẫn còn phổ biến, tỷ lệ gỗ rừng trồng phục vụ cho ngành dăm (có giá trị thấp) vẫn cao, phá vỡ tổng thể quy hoạch rừng trồng của cả nước.

Sản xuất bàn ghế từ gỗ cây keo lá tràm. (Ảnh: Hồ Cầu/TTXVN)
Sản xuất bàn ghế từ gỗ cây keo lá tràm. (Ảnh: Hồ Cầu/TTXVN)

Cùng chung nhận định, ông Điền Quang Hiệp, Chủ tịch Hiệp hội Gỗ Bình Dương phân tích, sở dĩ chất lượng gỗ rừng trồng của Việt Nam, nhất là gỗ tràm có chất lượng không cao do được trồng theo chủ trương phủ xanh đất trống đồi trọc nên khối lượng rất dồi dào nhưng lại không đồng nhất, chủ yếu là chất lượng thấp, tỷ lệ gỗ hao hụt trong quá trình chế biến khá cao.

Theo ông Điền Quang Hiệp, chu kỳ khai thác gỗ từ cây rừng trồng là 7 năm, với 4,3 triệu ha rừng trồng hiện có, khả năng cung ứng gỗ nguyên liệu trong nước chỉ đạt gần 27 triệu m3 gỗ quy tròn. Một điều đáng lưu ý là theo chu kỳ khai thác của cây cao su, sản lượng gỗ khai thác từ các vườn cao su trong giai đoạn 2020-2025 sẽ giảm nhiều gây ảnh hưởng lớn tới nguồn gỗ nguyên liệu rừng trồng thời gian tới. Trong khi đó, để xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ đạt 20 tỷ USD đòi hỏi nguồn cung ứng gỗ nguyên liệu từ rừng trồng trong nước phải tăng gấp đôi hiện nay, tức phải đạt khoảng 50-55 triệu m3 gỗ quy tròn.

Các doanh nghiệp ngành chế biến gỗ thường có xu hướng tự tìm nguồn nguyên liệu và tự sản xuất sản phẩm hoàn thiện mà chưa chuyên môn hóa theo công đoạn và kết nối thành chuỗi dài

Cùng với chất lượng nguồn gỗ nhiều doanh nghiệp cũng bày tỏ lo ngại khi Việt Nam chưa thiết lập được liên kết chuỗi về nguyên liệu-chế biến do sản xuất nhỏ lẻ và không tập trung. Chi phí cho việc vận chuyển gỗ từ nơi sản xuất đến chế biến còn cao làm tăng giá thành sản phẩm.

Ông Nguyễn Chánh Phương, Tổng Thư ký Hội Mỹ nghệ và chế biến gỗ Thành phố Hồ Chí Minh chia sẻ xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, các doanh nghiệp ngành chế biến gỗ Việt Nam thường có xu hướng tự tìm nguồn nguyên liệu và tự sản xuất sản phẩm hoàn thiện mà chưa có tư duy chuyên môn hóa theo công đoạn và kết nối thành chuỗi dài.

“Do duy trì hoạt động đơn lẻ nên các doanh nghiệp Việt khó tạo được sự đột phá về giá trị và nâng cao khả năng cạnh tranh so với các doanh nghiệp FDI. Sản xuất độc lập, thiếu liên kết giúp doanh nghiệp Việt Nam khai thác hiệu quả các thị trường ngách, số lượng nhỏ nhưng cũng là nguyên nhân khiến các doanh nghiệp  khó có khả năng cung ứng các đơn hàng số lượng lớn, sản xuất đại trà,” ông Nguyễn Chánh Phương nhấn mạnh./.

Sơ chế gỗ để bán cho các doanh nghiệp xuất khẩu tại cơ sở ở xã Xuân Vân, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang. (Ảnh: Quang Đán/TTXVN)
Sơ chế gỗ để bán cho các doanh nghiệp xuất khẩu tại cơ sở ở xã Xuân Vân, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang. (Ảnh: Quang Đán/TTXVN)

Tháo gỡ các nút thắt

Để phát triển bền vững dựa trên gia tăng giá trị thặng dư thật sự chứ không đơn thuần là mở rộng gia công, ngành chế biến gỗ phải nhanh chóng thay đổi chiến lược phát triển, bắt đầu từ việc tháo gỡ các nút thắt về nguồn nhân lực và liên kết chuỗi trong sản xuất-chế biến-thương mại.

Đầu tư phát triển nguồn nhân lực

Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Nguyễn Xuân Cường khẳng định nguồn lực con người là “yết hầu của ngành gỗ.” Trình độ của lao động không chỉ tác động đến năng suất của khâu sản xuất, chế biến mà còn ảnh hưởng không nhỏ đến việc xác định giá trị thương mại của sản phẩm. Chính vì vậy, muốn thực hiện được chỉ tiêu nâng cao kim ngạch xuất khẩu trong ngắn hạn hay phát triển bền vững trong tương lai điều đầu tiên là phải đầu tư phát triển nguồn nhân lực.

Ông Đỗ Xuân Lập, Chủ tịch Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam cho rằng lao động là một trong những nguồn lực cơ bản của ngành chế biến gỗ, do đó, nếu không bổ sung kịp thời và chuẩn bị đủ thế hệ lao động kế tiếp đồng nghĩa với việc giới hạn ngưỡng phát triển cho cả ngành trong tương lai gần.

Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Nguyễn Xuân Cường khẳng định nguồn lực con người là “yết hầu của ngành gỗ”

Để thu hút được nhiều nhân lực trẻ cho ngành gỗ, trước hết phải đẩy mạnh công tác truyền thông, giúp xã hội nhìn nhận đúng bản chất cũng như tiềm năng phát triển của ngành gỗ trong tương lai.

“Trong khi hàng ngàn sinh viên tốt nghiệp các ngành tài chính, công nghệ thông tin, quản trị kinh doanh… không tìm được việc làm đúng chuyên ngành thì rất ít người chọn học ngành chế biến lâm sản hay học nghề chế biến gỗ dù đây là ngành đang có nhu cầu nhân lực rất cao,” ông Đỗ Xuân Lập thông tin.

Đối với vấn đề đào tạo, nhiều chuyên gia cho rằng Nhà nước cần xây dựng và hoàn thiện chiến lược tổng thể phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho ngành chế biến nông lâm sản nói chung, bao gồm cả chế biến gỗ với các tiêu chí đáp ứng cả kiến thức chuyên môn và các kỹ năng thực hành.

Sản xuất, chế biến gỗ xuất khẩu tại Công ty TNHH khai thác, chế biến lâm sản Đà Lạt, Lâm Đồng. (Ảnh: TTXVN)
Sản xuất, chế biến gỗ xuất khẩu tại Công ty TNHH khai thác, chế biến lâm sản Đà Lạt, Lâm Đồng. (Ảnh: TTXVN)

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cần tổ chức, sắp xếp lại hệ thống các trường đại học, viện nghiên cứu và cơ sở dạy nghề, tập trung xây dựng các trường đại học trọng điểm về lâm nghiệp, có khả năng đào tạo đội ngũ chuyên gia đầu ngành. Song song với đó, cần chuẩn hóa chương trình đào tạo, đổi mới phương pháp dạy học, đánh giá, tập trung vào đào tạo năng lực thực hành những kỹ năng, kỹ thuật cốt lõi để thích ứng trong môi trường công nghiệp hiện đại.

Thế nhưng, cải thiện nguồn cung và chất lượng nhân lực một cách đồng bộ không phải là vấn đề có thể thực hiện trong một sớm một chiều mà cần ít nhất từ 5-10 năm mới có thể mang lại hiệu quả. Trong bối cảnh thiếu hụt nhân lực trước mắt, các hiệp hội ngành nghề, doanh nghiệp kinh doanh thiết bị và doanh nghiệp chế biến cần chủ động thực hiện liên kết với cơ sở đào tạo, trường dạy nghề triển khai các khóa học ngắn hạn cho lao động hoặc đặt hàng đào tạo theo nhu cầu.

Việc liên kết chặt chẽ giữa doanh nghiệp và cơ sở đào tạo sẽ là chìa khóa giải quyết nhiều bất cập trong đào tạo nhân lực 

Ông Lê Xuân Quân, Chủ tịch Hội Gỗ và Thủ công mỹ nghệ tỉnh Đồng Nai cho rằng việc liên kết chặt chẽ giữa doanh nghiệp và cơ sở đào tạo sẽ là chìa khóa giải quyết nhiều bất cập trong đào tạo nhân lực. Cụ thể, một trong những yếu tố quyết định đến chất lượng đào tạo là các trường thường không có đủ giáo cụ, không đủ kinh phí mua sắm các thiết bị, dây chuyền công nghệ chế biến gỗ hiện đại phục vụ quá trình thực hành. Khi đó, doanh nghiệp dù tuyển dụng nhân viên có bằng cấp vẫn phải quay lại đào tạo từ đầu, vừa tốn thời gian vừa tăng chi phí mà chưa chắc có giữ chân được họ sau khi đã đào tạo.

Nếu doanh nghiệp và nhà trường phối hợp và liên kết chặt chẽ theo cơ chế đặt hàng lao động, nhà trường có thể đưa sinh viên, học viên đến thực hành tại các nhà máy có dây chuyền sản xuất hiện đại của doanh nghiệp, nâng cao kỹ năng thực hành cho người học. Điều đó cũng giúp doanh nghiệp tiếp cận sớm với nguồn nhân lực có tay nghề, kỹ năng làm việc tốt thông qua việc theo dõi quá trình thực hành tại cơ sở sản xuất.

Liên kết nâng cao giá trị sản phẩm

Với mục tiêu đưa kim ngạch xuất khẩu đạt 20 tỷ USD vào năm 2025 và duy trì đà tăng trưởng cao trong thời gian dài, các chuyên gia cho rằng ngành chế biến gỗ Việt Nam cần định hướng phát triển cùng lúc nhiều giá trị, bao gồm sản xuất nguyên liệu, thiết kế, marketing và xây dựng thương hiệu để mang về giá trị thặng dư cao hơn.

Để đảm bảo nguồn cung nguyên liệu bền vững cho sản xuất, hiệp hội chế biến gỗ các địa phương đề nghị ngành nông nghiệp tổ chức lại rừng trồng phục vụ chế biến gỗ trên cơ sở đánh giá nhu cầu về khối lượng và chủng loại gỗ. Muốn gia tăng giá trị cho các loại gỗ rừng trồng, cần thực hiện đồng bộ các khâu lựa chọn giống tốt, áp dụng các kỹ thuật trồng cũng như tuyên truyền cho người trồng rừng kéo dài tuổi thọ cây rừng.

Sản xuất gỗ ghép thanh tại Công ty TNHH Phú Thịnh, thị trấn Vôi, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang. (Ảnh: Danh Lam/TTXVN)
Sản xuất gỗ ghép thanh tại Công ty TNHH Phú Thịnh, thị trấn Vôi, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang. (Ảnh: Danh Lam/TTXVN)

Người trồng rừng cần được tham gia sâu và nhìn nhận đúng vai trò trong chuỗi cung ứng của ngành, hơn là chỉ nhìn trên lượng gỗ trồng do họ làm ra. Trồng rừng không chỉ là ngành sản xuất nguyên liệu cho chế biến gỗ, lâm sản mà còn là có ý nghĩa trong việc gia tăng tỷ lệ che phủ, làm chậm quá trình biến đổi khí hậu và giải quyết việc làm cho lao động ở khu vực khó khăn, vì vậy Nhà nước và các tổ chức tài chính cần triển khai những chương trình tín dụng phù hợp để khuyến khích người dân duy trì trồng cây lâu năm. Song song đó, cần chú trọng nâng cao ý thức xây dựng hệ thống trách nhiệm giải trình nguồn gốc gỗ trong chuỗi cung ứng…  

Liên quan đến giá trị của sản phẩm gỗ, ông Nguyễn Quốc Khanh, Chủ tịch Hội Mỹ nghệ và chế biến gỗ Thành phố Hồ Chí Minh thông tin năm 2019, tổng giá trị tiêu dùng của ngành gỗ và nội thất toàn cầu đạt 450 tỷ USD nhưng lĩnh vực sản xuất chỉ chiếm 140 tỷ USD, còn lại chia đều cho 3 lĩnh vực sáng tạo-thương mại-thương hiệu. Tốc độ tăng trưởng của ngành chế biến gỗ Việt Nam những năm gần đây rất cao, tuy nhiên, hầu hết giá trị của ngành vẫn nằm trong lĩnh vực sản xuất.

Tốc độ tăng trưởng của ngành chế biến gỗ Việt Nam những năm gần đây rất cao, tuy nhiên, hầu hết giá trị của ngành vẫn nằm trong lĩnh vực sản xuất

“Việt Nam không còn nhiều lợi thế lao động giá rẻ để ở rộng sản xuất theo chiều ngang, hơn nữa 70% giá trị của sản phẩm gỗ hiện nay nằm ở khâu thiết kế và thương hiệu. Thị trường thế giới đã qua giai đoạn cạnh tranh về giá, hiện nay các sản phẩm đang cạnh tranh về chất lượng và xu thế tất yếu trong tương lai là cạnh tranh về thiết kế do khuynh hướng cá nhân hóa ngày càng cao. Khi đó sản phẩm có thiết kế càng đẹp thì giá bán càng cao. Thiết kế và thương mại, thương hiệu sẽ đóng vai trò sống còn trong việc tạo ra sức cạnh tranh cho ngành chế biến gỗ và nội thất của Việt Nam,” ông Nguyễn Quốc Khanh nhận định.

Chính vì vậy, bên cạnh việc phát triển sản xuất, ngành chế biến gỗ cần đầu tư đúng mức cho thiết kế và sáng tạo, vận dụng hiệu quả các phương thức thương mại mới và đẩy mạnh chiến lược marketing, xây dựng quảng bá thương hiệu đồ gỗ và nội thất Việt Nam ra thế giới.

Các đại biểu tham quan một triển lãm về công nghiệp chế biến gỗ. (Ảnh: Xuân Anh/TTXVN)
Các đại biểu tham quan một triển lãm về công nghiệp chế biến gỗ. (Ảnh: Xuân Anh/TTXVN)

Một “nút thắt” quan trọng khác cần được giải quyết chính là xây dựng và củng cố tính liên kết trong chuỗi giá trị theo cả chiều ngang và chiều dọc.

Ông Nguyễn Chiến Thắng, Chủ tịch Hội đồng thành viên Công ty Scansia Pacific phân tích chuỗi giá trị trong lâm nghiệp bao gồm các khâu từ trồng rừng đến khai thác, chế biến, thương mại và xuất khẩu. Với quy mô vừa và nhỏ, hầu hết doanh nghiệp Việt Nam trong ngành chỉ mới tham gia vào một hoặc vài khâu, chưa có doanh nghiệp nào có thể bao trọn gói từ nguyên liệu cho đến xuất khẩu. Chính vì vậy, việc liên kết giữa các khâu đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì hoạt động ổn định cho cả chuỗi.

Cụ thể, cần tăng cường liên kết dọc giữa các cá nhân/doanh nghiệp trong ở nhiều khâu khác nhau của chuỗi cung, điển hình là liên kết giữa các hộ dân trồng rừng và các doanh nghiệp chế biến gỗ để duy trì nguồn cung ổn định và đạt chất lượng.

Một mắt xích khác trong liên kết dọc là thiết lập quan hệ giữa doanh nghiệp sản xuất chế biến với các đơn vị thương mại, phân phối. Với sự phát triển mạnh mẽ của thương mại điện tử, những doanh nghiệp thức thời có thể liên kết với các sàn thương mại điện tử lớn để tiếp cận và hiện diện ở nhiều thị trường khác nhau, tiếp cận gần hơn khách hàng tiềm năng với chi phí thấp thấp hơn.

Bên cạnh đó, chuỗi giá trị cũng bao gồm các liên kết ngang giữa các cá nhân/doanh nghiệp trong cùng một khâu, ví dụ các doanh nghiệp cùng sản xuất một nhóm mặt hàng hoặc giữa các hộ trồng rừng nguyên liệu với nhau.

Các chuyên gia cho rằng việc xây dựng chuỗi liên kết chặt chẽ theo chiều ngang lẫn chiều dọc sẽ giúp hình thành mạng lưới giá trị đa chiều, trong đó mỗi thành viên có thể hỗ trợ nhau tận dụng các nguồn lực về nguyên liệu, đầu tư mua sắm thiết bị máy móc, công nghệ sản xuất và khai thác hiệu quả các thị trường quy mô lớn.

Nói cách khác, để vượt qua những thách thức của hiện tại, tạo sự đột phá về tăng trưởng và giá trị thặng dư cũng như khẳng định vị thế của Việt Nam trên bản đồ ngành chế biến gỗ và nội thất thế giới, các doanh nghiệp không thể “đơn thương độc mã” mà phải đi cùng nhau./.