
Chính sách Nhà nước không thể đột ngột cắt giảm nhu cầu tiêu dùng của một loại sản phẩm hàng hóa trên thị trường trừ phi có đủ các lý do thuyết phục chứng minh sự cần thiết phải làm như vậy.
Việt Nam đã ký kết hơn 70 hiệp định quốc tế về thuế quan, theo đó nhiều chính sách thuế đã được đã điều chỉnh. Tuy nhiên tại Dự thảo đề xuất sửa đổi 5 luật thuế, Bộ Tài chính đề xuất đưa các mặt hàng nước giải khát có đường (trừ sữa) vào diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt 10%, khiến các doanh nghiệp trong ngành rơi vào thế bị động trước những thay đổi từ chính sách. Không chỉ các công ty trong nước, một số nhà đầu tư nước ngoài cho rằng các chính sách thuế cần phải được xem xét cẩn trọng. Hơn nữa, việc áp thuế tiêu thụ đặc biệt đối với đồ uống có đường là một thực tiễn không phổ biến.

Báo cáo gần đây nhất của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) về các bệnh không lây nhiễm năm 2018, đã không khuyến nghị các quốc gia đánh thuế lên thực phẩm và đồ uống có đường vì mục đích bảo vệ sức khỏe cho người tiêu dùng.

Theo nội dung Báo cáo, các thành viên của WHO có những ý kiến khác nhau về tính hiệu quả của chính sách thuế trong việc định hướng tiêu dùng và bảo vệ sức khỏe của người dân. Các nghiên cứu khoa học cho thấy, nước ngọt không phải là nguyên nhân duy nhất gây ra bệnh tiểu đường, béo phì và ung thư.
Cụ thể, Báo cáo của WHO liệt kê ra một số nguyên nhân chính gây ra các loại bệnh trên, bao gồm thuốc lá, lạm dụng đồ uống có cồn, chế độ ăn uống không lành mạnh và lối sống ít vận động.
Ngoài ra, ô nhiễm không khí, sử dụng màn hình điện tử thường xuyên, ngủ không đủ thời gian tối thiểu hay tiêu thụ nhiều thực phẩm có chứa chất béo hoặc hàm lượng muối cao cũng có thể là tác nhân gây ra các bệnh kể trên.
Và, trên thế giới đang có khoảng 40 quốc gia áp thuế tiêu thụ đặc biệt đối với nước ngọt vì mục tiêu giảm và ngăn ngừa bệnh tiểu đường, béo phì. Nhưng hiệu quả của các chính sách thuế này chưa được chứng minh ở bất kỳ quốc gia nào, khi mà tỷ lệ người thừa cân, béo phì và tiểu đường ở các quốc gia áp dụng thuế tiêu thụ đặc biệt trên nước ngọt không có dấu hiệu giảm thậm chí còn tăng đều qua các năm.

Chuyên gia nghiên cứu của WHO cho biết, tại khu vực châu Á có 4 quốc gia áp thuế đối với nước ngọt là Brunei, Campuchia, Lào và Thái Lan. Số liệu thống kê ở các nước này cho thấy, tỉ lệ béo phì tại các nhóm tuổi từ 5 đến 19 và nhóm tuổi từ 18 trở lên vẫn liên tục tăng trong 16 năm qua. Chưa hết, hai nước Brunei và Thái Lan còn có tỷ lệ béo phì tăng nhanh và cao nhất trong khu vực.
Cụ thể, tỉ lệ béo phì ở người từ độ tuổi 5 đến 19 tuổi tại Thái Lan tăng từ 3,1% (năm 2000) lên mức 11,3% (năm 2016) và ở Brunei tăng từ 6,4% (năm 2000) lên mức 14,1% (năm 2016).

Giám đốc điều hành Hiệp hội Thương mại Hoa Kỳ (AmCham Vietnam) Adam Stikoff nhấn mạnh, chỉ có khoảng 2% dân số trong khu vực đang bị đánh thuế tiêu thụ đặc biệt lên nước ngọt (Brunei, Campuchia, Lào và Thái Lan).
Do đó, thay vì đánh thuế lên sản phẩm nước ngọt, một giải pháp hiệu quả hơn được bác sỹ Lưu Thị Mỹ Thục (Bệnh viện Nhi Trung ương) đưa ra, “biện pháp tốt nhất để kiểm soát cân nặng là thay đổi lối sống, hành vi, tăng hoạt động thể lực (thời gian hoạt động ở mức trung bình ít nhất 60 phút/ngày), giảm thời gian tĩnh tại. Đặc biệt, trẻ dưới 2 tuổi không nên xem tivi, trẻ lớn hơn chỉ xem tivi dưới 2giờ/ngày hoặc dưới 14 giờ/tuần.”
Phân tích các nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng béo phì tăng cao ở trẻ em Việt Nam, tiến sỹ Từ Ngữ, Tổng thư ký Hiệp hội dinh dưỡng Việt Nam chỉ ra, các bữa ăn trong gia đình người Việt đang bị phá vỡ (chiếm 90%) và trẻ ngày càng lười vận động.
“Hiện, trẻ em ăn quá nhiều thức ăn nhanh, khẩu phần ăn ở trường thừa protein, thiếu chất xơ và vi chất…,” vì vậy, vị tiến sỹ này khuyến cáo, “các cấp quản lý cần đưa ra các mô hình khuyến khích chế độ ăn lành mạnh, cùng với đó tăng cường hoạt động thể lực trong trường học, điều chỉnh cấu trúc bữa ăn…”
Ngoài các biện pháp kể trên, WHO cũng khuyến cáo các Chính phủ nên xây dựng và thực hiện một mô hình kinh tế mới cho các hoạt động phòng chống các bệnh không lây nhiễm, với các bằng chứng cho thấy các biện pháp tập trung đầu tư vào nguồn nhân lực và tăng trưởng kinh tế sẽ rất hiệu quả.

Đồng tình với quan điểm trên, ông Adam Stikoff đưa ra một số kinh nghiệm quốc tế, tại những quốc gia với tỷ lệ béo phì cao như Trung Quốc, Hàn Quốc, Australia và New Zealand, họ không đưa ra chính sách thuế áp lên nước ngọt, nguyên do chủ yếu là chưa có chứng minh cụ thể nào cho thấy các tác động từ sắc thuế này đảm bảo mục tiêu bảo vệ sức khỏe người tiêu dùng.
“Thêm vào đó, thực tế cho thấy việc áp thuế tiêu thụ đặc biệt lên đồ uống có đường không giảm được tỷ lệ béo phì và đái tháo đường trong dân chúng. Mặt khác, nó lại gây ra những tác động tiêu cực về kinh tế – xã hội đối với ngành công nghiệp nước giải khát nói riêng và nền kinh tế nói chung,” ông này nói.
Một bằng chứng khác, năm 2004, Chính phủ Indonesia đã chính thức bãi bỏ sắc thu thuế tiêu thụ đặc biệt đối với nước ngọt. Vì sau quá trình thực hiện, chính sách thuế này đã không đạt mục tiêu cải thiện sức khỏe cộng đồng thay vào đó là ngành sản xuất nước giải khát của họ bị tê liệt.

Tương tự, Chính phủ Đan Mạch cũng bãi bỏ việc áp thuế tiêu thụ vào nước ngọt (năm 2013) nhằm tạo thêm việc làm và thúc đẩy nền kinh tế các địa phương.
Từ các nghiên cứu kinh tế khác, một số nhà phê bình còn khẳng định “việc sử dụng các loại thuế này đặc biệt không hiệu quả.” Cụ thể, khi Chính phủ New Zealand đang xem xét áp thuế đối với nước ngọt, Viện nghiên cứu kinh tế của nước này đã phân tích, đánh giá 47 nghiên cứu và đưa ra kết luận “không có bằng chứng thuyết phục chứng minh việc áp thuế đối với đồ uống có đường có thể giúp bảo vệ sức khỏe, đặc biệt là giảm tỷ lệ mắc bệnh béo phì và đái tháo đường.”
Và mới đây (tháng 6/2018), các nhà lập pháp tại bang California – Mỹ đã bỏ phiếu “cấm ban hành các loại thuế địa phương đánh vào nước ngọt,” theo đó bất kỳ loại thuế mới nào đánh vào thực phẩm và đồ uống sẽ không được họ thông qua, ít nhất tới năm 2031.

Vì vậy, ông Adam Stikoff khuyến nghị, Chính phủ Việt Nam cần áp dụng các biện pháp tuyên truyền, giáo dục đối với người tiêu dùng, đặc biệt là giới trẻ cải thiện thói quen ăn uống đi cùng một lối sống lành mạnh. Bên cạnh đó, các cơ quan quản lý cần nghiêm khắc yêu cầu các nhà sản xuất cung cấp đầy đủ những thông tin dinh dưỡng trên bao bì thực phẩm và đồ uống, để người tiêu dùng có lựa chọn đúng đắn theo nhu cầu và điều này là vô cùng cần thiết.

Kinh nghiệm từ nhiều quốc gia trên thế giới cũng chỉ ra, các chương trình giáo dục tại trường học với các hoạt động vận động thể chất sẽ giúp trẻ em hình thành lối sống lành mạnh ngay từ nhỏ.
Điển hình tại Singapore, Chính phủ của họ cho áp dụng chương trình dán nhãn biểu tượng “Tốt cho Sức khỏe – Healthier choice – HCS” đối với các sản phẩm thực phẩm đóng gói nhằm giúp người tiêu dùng lựa chọn đúng sản phẩm theo nhu cầu.
Cụ thể, các tiêu chuẩn dinh dưỡng của nhãn “Healthier choice” đã được Ủy ban Nâng cao Sức khoẻ (HPB) của Chính phủ xây dựng theo từng loại sản phẩm, bao gồm tổng hàm lượng chất béo, chất béo bão hòa, chất béo chuyển vị, natri và đường thấp, và hàm lượng chất xơ ăn kiêng, ngũ cốc nguyên hạt và canxi cao.
Thay mặt các doanh nghiệp trong ngành có vốn đầu tư nước ngoài, ông Adam Stikoff khuyến nghị, “Chính phủ Việt Nam không nên đánh thuế tiêu thụ đặc biệt lên nước ngọt, tránh gây những tác động tiêu cực lên ngành đồ uống. Bởi, chưa có chứng minh nào cho thấy việc đánh thuế sẽ giúp cho người Việt Nam có sức khỏe tốt hơn, trong khi đã có bằng chứng về việc đánh thuế sẽ có tác động tiêu cực đến nền kinh tế và ảnh hưởng đến các cơ hội việc làm của người dân.
Chính sách Nhà nước không thể đột ngột cắt giảm nhu cầu tiêu dùng của một loại sản phẩm hàng hóa trên thị trường, trừ phi có đủ các lý do thuyết phục chứng minh về sự cần thiết phải làm như vậy”./.

Thiết kế mỹ thuật: Thanh Trà)