Năm 2020 ghi dấu ấn quan trọng trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta. Chỉ chưa đầy 4 tháng, sau khi Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam-EU (gọi tắt là EVFTA) có hiệu lực (ngày 1/8/2020), Việt Nam và các đối tác thành viên trong ASEAN đã chính thức ký kết Hiệp định RCEP với 5 đối tác lớn.
Theo các chuyên gia, việc ký kết Hiệp định RCEP đã ghi thêm một bước tiến mới trong tiến trình hội nhập kinh tế của Việt Nam, góp phần nâng cao vai trò và vị thế của nước ta trong khu vực và trên thế giới.
Đánh giá của Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Quốc Dũng cũng nhấn mạnh các nước liên quan đã mất tới 8 năm để đàm phán, thương lượng về RCEP. Vì vậy, việc ký kết được Hiệp định này sẽ tạo nên một sức bật mới, một cú hích mới cho sự phát triển thương mại trong khu vực, đặc biệt là các nước tham gia ký kết.
Điều này có ý nghĩa rất lớn với Việt Nam nói riêng, với vai trò là Chủ tịch ASEAN năm 2020, trong quá trình thúc đẩy để đạt được thỏa thuận đi đến ký kết RCEP.
‘Không gian mới’ cho phục hồi kinh tế hậu COVID
Ngày 15/11/2020, 10 nước thành viên ASEAN và 5 nước đối tác là Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Australia và New Zealand đã chính thức ký kết Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) tại Hà Nội.
RCEP khi đi vào thực thi sẽ tạo cơ hội cho doanh nghiệp Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu sang 14 thị trường trong khối.
Đây là một Hiệp định có tầm quan trọng rất lớn, bởi khi được ký kết và đi vào thực thi, RCEP sẽ hình thành khu vực kinh tế lớn nhất từ trước đến nay, với GDP chiếm tới 30% tổng GDP toàn cầu, khoảng 26,2 nghìn tỷ USD, chiếm 30% dân số thế giới.
Quan trọng hơn, RCEP sẽ tạo ra một không gian phát triển mới cho các nước thành viên ASEAN để có thể phục hồi kinh tế sau hậu COVID-19.
“Cửa lớn” cho doanh nghiệp
Theo cam kết, Việt Nam và các nước đối tác sẽ xóa bỏ thuế quan đối với ít nhất 64% số dòng thuế ngay khi hiệp định có hiệu lực. Đến cuối lộ trình sau 15-20 năm, Việt Nam sẽ xóa bỏ thuế quan đối với khoảng 85,6% đến gần 90% số dòng thuế với các nước đối tác.
Ở chiều ngược lại, các nước đối tác sẽ xóa bỏ thuế quan cho Việt Nam từ 90%-92% số dòng thuế. Riêng các nước ASEAN sẽ xóa bỏ từ 85-100% số dòng thuế cho Việt Nam.
Bên cạnh đó, một số mặt hàng được các nước xóa bỏ thuế quan ngay khi hiệp định có hiệu lực như viễn thông, công nghệ thông tin, máy móc, phụ tùng, hóa chất…
Chính những lợi thế này sẽ giúp Việt Nam có cơ hội mở thêm nhiều thị trường cho doanh nghiệp trong nước khi tham gia vào Hiệp định RCEP.

Bà Nguyễn Thị Thu Trang, Giám đốc Trung tâm WTO thuộc Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), cho biết RCEP khi đi vào thực thi sẽ tạo cơ hội cho doanh nghiệp Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu sang 14 thị trường trong khối.
Cụ thể, RCEP sẽ giúp mở cửa để nhập khẩu hàng hóa rẻ hơn, đặc biệt là các nguyên vật liệu đầu vào phục vụ sản xuất. Bởi chỉ tính riêng ASEAN, nhập khẩu nguyên liệu, thiết bị sản xuất của nước ta hàng năm vượt 30 tỷ USD.
Bên cạnh đó, các quy trình về hải quan sẽ được thống nhất, tạo thuận lợi thương mại hay xây dựng các quy tắc chung để hạn chế, kiểm soát các hàng rào phi thuế quan cũng như giảm chi phí dưới tác động của mở cửa thị trường dịch vụ phục vụ sản xuất.
“Nếu như ở CPTPP, Việt Nam khó tận dụng ưu đãi thuế quan đối với sản phẩm dệt may bởi quy tắc xuất xứ nội khối, vì phần lớn nguồn cung nguyên liệu của Việt Nam có xuất xứ từ Trung Quốc, thì khi tham gia RCEP sẽ giảm bớt gánh nặng chi phí nhập khẩu nguyên liệu đầu vào từ những ưu đãi thuế quan,” bà Nguyễn Thị Thu Trang cho biết thêm.
Nhờ vào việc hài hòa quy tắc xuất xứ trong Hiệp định RCEP, hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam có thể tăng khả năng đáp ứng điều kiện để hưởng ưu đãi thuế quan do nguồn cung nguyên liệu đầu vào chủ yếu nằm trong RCEP nhằm gia tăng khả năng xuất khẩu trong khu vực này, đặc biệt ở các thị trường lớn như Nhật Bản, Australia, Hàn Quốc…
Ở một khía cạnh khác, bà Nguyễn Thị Quỳnh Nga, Phó Vụ trưởng Vụ Chính sách thương mại đa biên (Bộ Công Thương), nhìn nhận: Với tất cả các nước ASEAN, mặc dù Hiệp định RCEP không hướng đến giá trị gia tăng mới về mở cửa thị trường do ASEAN đều đã có FTA với các đối tác, song Hiệp định này về cơ bản là thỏa thuận mang tính kết nối các cam kết đã có của ASEAN với 5 đối tác trong một Hiệp định FTA.
“Về cơ bản, RCEP sẽ không tạo ra cam kết mở cửa thị trường hay áp lực cạnh tranh mới mà chủ yếu hướng đến tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ,” bà Nga cho hay.
Thiết lập chuỗi cung ứng mới
Trên thực tế, Việt Nam đã tham gia với các nước ASEAN và 5 đối tác trong RCEP theo các hiệp định FTA giữa nội khối ASEAN. Cụ thể là hiệp định Thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA) và các FTA giữa ASEAN với từng đối tác trong số 5 đối tác trên (gọi tắt là Hiệp định ASEAN+1).
Vì vậy, quá trình tự do hóa thuế quan với các nước ASEAN đã được thực hiện trong suốt 20 năm qua và với 5 đối tác trên trong vòng khoảng 15 năm.
Đại diện Bộ Công Thương nhận định việc thực hiện Hiệp định RCEP sẽ không tạo ra cú sốc về giảm thuế quan đối với Việt Nam. Ngoài ra, với quá trình thực thi RCEP, Việt Nam sẽ có thêm những đổi mới mạnh mẽ về thủ tục hành chính, tạo điều kiện hơn cho hoạt động sản xuất-kinh doanh trong nước và cải thiện môi trường đầu tư.

Điều này cũng sẽ giúp tăng cường khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước, tạo đà để doanh nghiệp tham gia sâu hơn và ổn định hơn vào các chuỗi giá trị mới thiết lập trong khu vực.
Ông Lương Hoàng Thái, Vụ trưởng Vụ Chính sách thương mại đa biên (Bộ Công Thương), cho biết trước tình hình thế giới đầy biến động gây ra những xáo trộn về chuỗi cung ứng trong những năm gần đây, việc hình thành một khu vực thương mại tự do lớn nhất thế giới theo Hiệp định RCEP sẽ tạo ra một thị trường xuất khẩu ổn định dài hạn cho Việt Nam, qua đó góp phần thực hiện chính sách xây dựng nền sản xuất định hướng xuất khẩu.
Bên cạnh đó, dù thâm hụt thương mại của Việt Nam với một số nước như Hàn Quốc, Trung Quốc hiện còn cao, song ông Lương Hoàng Thái khẳng định Hiệp định RCEP sẽ không làm trầm trọng vấn đề nhập siêu, thậm chí có khả năng cải thiện cho Việt Nam và các nước ASEAN trong dài hạn.
“Khi Việt Nam gia nhập WTO thì nhập siêu cũng rất lớn, nhưng từ việc chấp nhận hội nhập để tự vươn lên thì doanh nghiệp của Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc, khả năng cạnh tranh của nền kinh tế và doanh nghiệp không bị giảm đi mà còn tăng lên. Việt Nam đã hội nhập trong nhiều năm nên hy vọng sẽ rút ra được các kinh nghiệm cần thiết để hội nhập thành công khi tham gia RCEP,” Vụ trưởng Vụ chính sách Thương mại đa biên nhấn mạnh.
Hiệp định RCEP sẽ không làm trầm trọng vấn đề nhập siêu, thậm chí có khả năng cải thiện cho Việt Nam và các nước ASEAN trong dài hạn.(Ông Lương Hoàng Thái, Vụ trưởng Vụ Chính sách thương mại đa biên – Bộ Công Thương)
Trước khi ký RCEP, Việt Nam đã ký nhiều hiệp định thương mại tự do với các đối tác; trong đó có những hiệp định thế hệ mới với mức độ cam kết rất cao.
Tuy vậy, theo Bộ trưởng Bộ Công Thương Trần Tuấn Anh, RCEP có tính chất khác xa so với các FTA đã ký. Nếu như CPTPP hay EVFTA hướng đến mở cửa thị trường, thì RCEP hướng đến vai trò trung tâm của ASEAN, cụ thể là tạo ra một khuôn khổ để thuận lợi hóa thương mại và tạo không gian kết nối chung sản xuất trong toàn ASEAN, vì thế lợi ích mang lại cũng khác biệt.
Theo nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới (WB) thực hiện năm 2018, việc thực thu RCEP có thể giúp tổng sản phẩm quốc dân (GDP) của Việt Nam tăng thêm 0,4% đến năm 2030, nếu xét lợi ích trực tiếp và có thể lên đến 1%, nếu có tính đến lợi ích gián tiếp từ cải cách thể chế.
“Việc cắt giảm thuế nhập khẩu sẽ mở ra cơ hội mới cho các sản phẩm từ các lĩnh vực nổi bật như viễn thông, công nghệ thông tin, dệt may, giày dép và nông nghiệp,” Bộ trưởng Trần Tuấn Anh nói.
Tuy vậy, để khai thác triệt để lợi ích do Hiệp định RCEP cũng như các hiệp định FTA khác mang lại, các chuyên gia cũng lưu ý các doanh nghiệp cần nghiên cứu kỹ cam kết của Hiệp định, nhất là các cam kết về lộ trình cắt giảm và xóa bỏ thuế quan đối với hàng hóa của Việt Nam cũng như của các nước tham gia Hiệp định; quy tắc xuất xứ của Hiệp định, cam kết mở cửa thị trường trong lĩnh vực dịch vụ và đầu tư, các quy định về thủ tục hải quan và thuận lợi hóa thương mại…
Bên cạnh đó, doanh nghiệp trong nước cũng cần chủ động nắm bắt và chuẩn bị trước về các tác động bất lợi, nhất là việc gia tăng cạnh tranh ngay tại thị trường nội địa.
Theo Luật sư Trần Xuân Tiền, Trưởng văn phòng Luật sư Đồng Đội, Hiệp định RCEP và các FTA sẽ mang lại cơ hội cho doanh nghiệp nào chủ động đáp ứng với những thay đổi về môi trường kinh doanh do quá trình hội nhập kinh tế quốc tế mang lại, thông qua việc xây dựng và điều chỉnh kế hoạch kinh doanh cho giai đoạn trung và dài hạn nhằm thúc đẩy dòng chảy của hàng hóa vào các thị trường đối tác tiềm năng nêu trên.
Song doanh nghiệp cần chủ động tìm hướng hợp tác với các thị trường đối tác của Hiệp định để thu hút mạnh mẽ đầu tư trực tiếp vào Việt Nam, nhằm tận dụng hiệu quả nguồn vốn và việc chuyển giao công nghệ từ các tập đoàn lớn. Đây cũng chính là cơ hội tốt để các doanh nghiệp Việt Nam tham gia sâu hơn nữa vào chuỗi cung ứng khu vực và toàn cầu./.

Hiệp định RCEP: Bước đi mang tính chiến lược
Việc hình thành một khu vực thương mại tự do lớn nhất thế giới theo Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) sẽ tạo ra một thị trường xuất khẩu ổn định dài hạn cho Việt Nam, qua đó góp phần thực hiện chính sách xây dựng nền sản xuất định hướng xuất khẩu của Việt Nam.
Với các FTA đã ký kết, có thể xét dưới góc độ thương mại thuần túy thì nhiều hiệp định thương mại không đem lại quá nhiều lợi ích, thế nhưng chúng ta cần nhìn nó trong các chuỗi giá trị và mảng sản xuất, chuỗi cung ứng để nâng hiệu quả và gắn với đầu tư.
Theo chuyên gia kinh tế, tiến sỹ Võ Trí Thành, bên cạnh những ngành nghề Việt Nam có lợi thế đang tham gia vào các mảng sản xuất, chuỗi cung ứng, như: Dệt may, da giày, đồ gỗ được hưởng lợi trực tiếp thì Hiệp định RCEP cũng tạo hiệu ứng tích cực tới một số lĩnh vực phục vụ người tiêu dùng như: Du lịch, giáo dục, giải trí, y tế, bán lẻ…, đặc biệt là các lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ, dịch vụ công nghiệp hỗ trợ…
– Thưa ông, cùng với Hiệp định CPTPP và EVFTA đã ký kết trước đây, Hiệp định RCEP sẽ có những tác động cụ thể như thế nào đối với Việt Nam?
Tiến sỹ Võ Trí Thành: Nếu nhìn vào một hiệp định thương mại tự do thì lợi ích cụ thể đầu tiên là tiếp cận thị trường, do thuế quan giảm rất mạnh (thường về 0%). Trước đây chúng ta đã thực thi ASEAN+1, nhưng xét về tổng thể thì mức độ giảm thuế quan đặc biệt là về 0% của RCEP có tỷ lệ cao hơn, đây rõ ràng là lợi ích tốt hơn.

Nhìn lại quá khứ, khi Việt Nam có hoạt động thương mại thì nguyên tắc xuất xứ thường là của ASEAN với 1 nước thành viên. Tuy nhiên, khi thành một Hiệp định ASEAN+ chung với các đối tác thì nguyên tắc xuất xứ này chung cho cả khối, như vậy vừa tạo thuận lợi vừa tạo điều kiện mới để tăng cường lợi ích từ thương mại và đầu tư.
Thực tế cho thấy khu vực Đông Á là khu vực mà mảng liên kết sản xuất-kinh doanh, các chuỗi cung ứng được coi là phát triển và năng động nhất toàn cầu. Do vậy, tổng thể này tạo ra một cơ hội mới cho đầu tư, sản xuất-kinh doanh và thúc đẩy tiếp các chuỗi sản xuất và cung ứng.
Cuối cùng phải thấy rằng mặc dù trình độ phát triển khác nhau, song sự hợp tác để nâng cao năng lực của các nước có trình độ yếu hơn là tác động rất tích cực.
– Ông có thể nói rõ hơn về những lợi ích cụ thể mà RCEP mang lại cho Việt Nam cũng như các thách thức mà chúng ta phải vượt qua để có thể tận dụng được các cơ hội của Hiệp định này?
Tiến sỹ Võ Trí Thành: Thực sự những lợi ích đem lại là rất to lớn về tiếp cận thị trường và trao đổi thương mại-đầu tư ở khu vực cũng như tạo ra chuỗi cung ứng hay thu hút đầu tư trên thế giới. Tuy nhiên, như vậy không có nghĩa là mọi việc trôi chảy, không có thách thức gì.
Bên cạnh việc nâng cao năng lực về thể chế, năng lực của doanh nghiệp, thì cần thấy một điểm đó là trong khu vực này Việt Nam thâm hụt thương mại rất lớn với các đối tác (như Trung Quốc, Hàn Quốc, ASEAN)…, nhưng Việt Nam lại có thặng dư thương mại với các nước khác như Hoa Kỳ, EU…

Điều đó nói lên một điều, bên cạnh việc hiểu và tận dụng RCEP để tạo thuận lợi và nâng cao hiệu quả của việc tham gia vào các chuỗi cung ứng thì Việt Nam cũng phải quan tâm tới các thị trường khác.
Trên thực tế, đây là một chiến lược của chúng ta, tức là bên cạnh các FTA với các nước trong khu vực rất năng động này thì Việt Nam cũng có FTA với các thị trường lớn như CPTPP hay EVFTA.
Như vậy, chúng ta phải biết nhìn nhận hoạt động sản xuất-kinh doanh trong tổng thể đó để vừa nâng cao năng lực cạnh tranh, vừa học hỏi nhưng đồng thời cũng nâng được hiệu quả, nhất là trong thương mại và đầu tư.
Với các FTA đã ký kết, có thể xét dưới góc độ thương mại thuần túy thì nhiều hiệp định thương mại không đem lại quá nhiều lợi ích, thế nhưng chúng ta cần nhìn nó trong các chuỗi giá trị và mảng sản xuất, chuỗi cung ứng để nâng hiệu quả và gắn với đầu tư.
– Điều quan tâm là không phải ký được nhiều hiệp định mà chính là sự đồng bộ, liên kết giữa các Hiệp định, vậy quan điểm của ông về vấn đề này như thế nào?
Tiến sỹ Võ Trí Thành: Trong suốt 20 năm qua, đã có các cuộc tranh luận rất lớn-đó là các FTA song phương và các FTA mà nhiều bên tham gia, bên cạnh ý nghĩa tác động tích cực thì nó có thể tạo ra những sự “méo mó” bởi vì chỉ có các nước trong “câu lạc bộ” FTA đó mới được hưởng những quyền lợi đó, tức là mang tính xây dựng hay ngăn cản.

Tinh thần các nước khu vực châu Á-Thái Bình Dương (như APEC) đều ủng hộ đa phương và ủng hộ WTO, vì nếu có một hiệp định chung nhất cho toàn cầu như kiểu WTO (dù mức độ chiều sâu về thương mại-đầu tư của hiệp định này còn hạn chế) thì rõ ràng lợi ích đem lại sẽ tốt cho các bên và ít méo mó trong phân bổ nguồn lực.
Tuy nhiên, rất khó đi tìm một điểm chung, cộng với trình độ phát triển… cũng như chiều hướng chủ nghĩa bảo hộ gia tăng nên không thể có một lựa chọn tốt nhất. Do vậy, Hiệp định này chính là đi vào từng bước để có lựa chọn phù hợp, như lựa chọn ít bên hơn, song tinh thần là ngày càng tiến tới một khu vực mở, rộng hơn.
– Xin cảm ơn ông./.

Doanh nghiệp Việt: Tấn công chớ quên phòng thủ
Những cam kết về mở cửa thị trường và ưu đãi về thuế quan tại Hiệp định RCEP là cơ hội lớn cho doanh nghiệp Việt Nam tăng thị phần trong thị trường 26.000 tỷ USD này.
Cùng với các cơ hội về thị trường và giảm thuế quan, Hiệp định RCEP cũng tháo những “nút thắt” về quy tắc xuất xứ, qua đó thúc đẩy nhiều hơn những cơ hội cho doanh nghiệp.
Tuy nhiên, để tận dụng được cơ hội này đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải chủ động nâng cao năng lực cạnh tranh và thích ứng với những yêu cầu khắt khe của thị trường.
Chủ động “đón sóng”
Chất lượng, giá cả phù hợp nhu cầu tiêu dùng của người dân bản địa, các sản phẩm của Santa từ nhiều năm qua đã tạo dựng tên tuổi tại các thị trường như Trung Quốc, Malaysia.
Không những vậy, khi Hiệp định RCEP thực thi sẽ tiếp tục mở cơ hội lớn để doanh nghiệp này có thể đẩy mạnh xuất khẩu và tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu.
Chia sẻ về những yếu tố tạo nên thành công cho doanh nghiệp, ông Cao Minh Sang, Giám đốc Công ty Cổ phần Thực phẩm Santa, nhìn nhận: Với một hiệp định có mức độ cam kết rất cao như RCEP, doanh nghiệp đã phải chuẩn bị sẵn sàng các điều kiện, từ những quy định của thị trường, đến những tiêu chuẩn về hàng hóa để có thể đón cơ hội từ hiệp định này.

Thực tế, các sản phẩm của Công ty đều đạt các chứng nhận như: ISO, HACCP, USDA… Bên cạnh đó, doanh nghiệp đã xây dựng vùng sản xuất nguyên liệu theo tiêu chuẩn hữu cơ tại khu vực Đông Nam Bộ, Tây Nguyên và Đồng bằng sông Cửu Long.
Ông Cao Minh Sang cho hay việc áp dụng dây chuyền công nghệ sản xuất hiện đại như dây chuyền chần trụng nguyên liệu ngay lập tức mà không cần qua chế biến của Mỹ, Nhật Bản đã giúp sản phẩm được làm chín phù hợp và giữ được hương vị, màu sắc và độ tươi. Hay công nghệ cấp đông IQF của Mỹ, công nghệ đóng chai HPP… tất cả đều đáp ứng những tiêu chuẩn khắt khe của Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA)…
“Chúng tôi kỳ vọng sau khi RCEP được thực thi,việc tiếp cận thị trường sẽ rộng mở hơn, từ đó giúp doanh nghiệp tăng kim ngạch xuất khẩu từ 15-20% so với trước đây,” ông Cao Minh Sang chia sẻ.
Thống kê của Bộ Công Thương cũng cho thấy bất chấp đại dịch COVID-19, xuất khẩu của Việt Nam vào một số thị trường vẫn đạt kết quả khả quan. Đơn cử, tại thị trường Australia, sau 11 tháng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường này tăng 1,5% và Trung Quốc tăng tới 16%. Đây đều là những nước thành viên tham gia RCEP nên dự báo thời gian tới khi Hiệp định thực thi sẽ có những thay đổi tích cực, mạnh mẽ.
Ông Phạm Thiết Hòa, Tổng Giám đốc Tổng Công ty nông nghiệp Sài Gòn, đánh giá Hiệp định RCEP có sự tham gia của 15 nước đã chiếm 30% tổng GDP toàn cầu là cơ hội rất lớn cho các doanh nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu. Hơn thế, các quốc gia thành viên RCEP là các quốc gia nằm gần nhau ở khu vực châu Á nên việc di chuyển, đường đi của hàng hóa xuất khẩu cũng thuận tiện.
Ngoài ra, lượng hàng hóa luân chuyển trong RCEP rất lớn sẽ tạo ra một thị trường “khổng lồ” cho các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam.
“Ngoài việc cần đạt được các tiêu chuẩn xuất khẩu của các nước thành viên RCEP thì các doanh nghiệp trong nước cũng không nên chủ quan, bởi các doanh nghiệp trong khối cũng sẽ khai thác các lợi thế để “tấn công” thị trường nội địa. Vì thế, doanh nghiệp cũng phải củng cố vị thế ở thị trường nội địa, nâng cao năng lực cạnh tranh về giá, chất lượng cho hàng xuất khẩu, đặc biệt ở sân chơi lớn như RCEP,” ông Phạm Thiết Hòa chia sẻ.
Cùng với các cơ hội về thị trường và giảm thuế quan, Hiệp định RCEP cũng tháo những “nút thắt” về quy tắc xuất xứ, qua đó thúc đẩy nhiều hơn những cơ hội cho doanh nghiệp.
Ông Trương Đình Hòe, Tổng thư ký Hiệp hội Chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP), nhận định hiệp định RCEP tích hợp một số FTA mà ASEAN đã ký trước đó, do đó khi RCEP có hiệu lực, doanh nghiệp xuất khẩu có thể dùng chung một mẫu giấy chứng nhận xuất xứ (C/O)thay vì từng mẫu C/O cho từng thị trường như hiện nay, giúp đơn giản thủ tục.
“Theo các cam kết, RCEP còn giúp doanh nghiệp mở rộng thị trường nhờ hưởng ưu đãi về thuế quan,” đại diện VASEP nói thêm.
Sẵn sàng tạo lập cuộc chơi mới
Có thể nói, “sân chơi” của doanh nghiệp Việt Nam chưa bao giờ lớn như hiện nay. Tuy nhiên, để hiện thực hóa các cơ hội từ hiệp định mang lại, ông Tô Hoài Nam, Phó Chủ tịch thường trực kiêm Tổng thư ký Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam (VINASME) cũng khuyến nghị các doanh nghiệp cần xem xét các chuỗi cung ứng hiện tại trong khu vực hoặc toàn cầu để đánh giá tác động của Hiệp định RCEP lên mô hình kinh doanh trong tương lai.
Điều này không chỉ quan trọng đối với doanh nghiệp có trụ sở tại các thị trường thành viên mà còn đối với bất kỳ doanh nghiệp nào kinh doanh trong khu vực, kể cả thị trường nội địa.

“Chúng ta cũng cần phải hiểu là mặc dù Hiệp định RCEP về nguyên tắc luật chơi sẽ diễn ra bình đẳng trên cùng một sân chơi, tất cả các bên tham gia đều có mong muốn cùng thắng theo triết lý kinh doanh “win-win”. Nhưng quy luật “mạnh được, yếu thua” trong cạnh tranh là không thể tránh khỏi và phần thắng luôn thuộc về sản phẩm, dịch vụ có năng lực cạnh tranh cao hơn,” đại diện Hiệp hội doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam cho hay.
Bên cạnh đó, để tránh tạo ra những “cú sốc” về thị trường, các chuyên gia cho rằng doanh nghiệp cần nghiên cứu, tìm hiểu kỹ và rõ tác động về thuế quan đến từng nhóm hàng hóa, dịch vụ của mình để đưa ra những chiến lược kinh doanh phù hợp và khai thác triệt để các lợi thế cạnh tranh.
Đặc biệt, doanh nghiệp phải chủ động đầu tư cho con người, máy móc và công nghệ; hướng tới hoạt động nghiên cứu phát triển, thiết kế sản phẩm và nâng cao năng suất, cắt giảm chi phí đến mức tối đa. Chỉ khi chủ động tham gia vào các công đoạn tạo ra giá trị gia tăng cao thì doanh nghiệp Việt Nam mới được hưởng lợi thực sự từ các FTA nói chung và RCEP nói riêng.
Ông Frederick R.Burke, Giám đốc Công ty Trách nhiệm hữu hạn Baker& Mckenzine Việt Nam, cho rằng RCEP là thị trường lớn, bao trùm phần lớn chuỗi sản xuất (từ nguồn cung nguyên liệu đến thị trường tiêu thụ) của nhiều sản phẩm thế mạnh của Việt Nam như: dệt may, nông sản, thiết bị điện tử.
Với quy tắc xuất xứ nội khối, đây sẽ là cơ hội để doanh nghiệp Việt Nam mở rộng thị trường xuất khẩu, tham gia vào chuỗi cung ứng vùng và thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
“Tuy nhiên, để các doanh nghiệp tận dụng được những cơ hội này, Nhà nước cần có sự hướng dẫn doanh nghiệp một cách cụ thể về các mức thuế quan theo từng ngành và theo lộ trình trong các hiệp định đã cam kết để doanh nghiệp nắm vững, vận dụng thực thi sao cho hiệu quả cao nhất,” ông Frederick R.Burke khuyến nghị thêm./.
