Đón đầu dòng vốn FDI

ttxvncongn-1592448921-41.jpg

Không đổi mới sẽ khó thành công

Thúy Hiền

Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XIV vừa thông qua Nghị quyết phê chuẩn Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam-Liên minh châu Âu (EVFTA) và Hiệp định Bảo hộ đầu tư Việt Nam-Liên minh châu Âu (EVIPA). Hai văn kiện này được coi như ‘tuyến đường cao tốc’ quy mô lớn hiện đại nối gần hơn nữa Liên minh châu Âu và Việt Nam, mở ra triển vọng thu hút đầu tư của cộng đồng kinh tế hàng đầu trên thế giới.

Những năm qua, Việt Nam được thế giới ghi nhận là quốc gia có mức tăng trưởng GDP cao nhờ huy động, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực; trong đó có những thành công trong thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Đặc biệt, do tác động tiêu cực từ đại dịch COVID-19, giới đầu tư quốc tế đang đẩy nhanh tiến trình tái cơ cấu, phân bố lại mạng lưới cơ sở sản xuất trên phạm vi toàn cầu; trong đó, Việt Nam được xác định là ứng viên sáng giá khi nằm ở khu vực phát triển năng động nhất thế giới.

Tại cuộc họp Thường trực Chính phủ về tình hình, triển vọng và các giải pháp thu hút đầu tư nước ngoài ứng phó với các thách thức toàn cầu do COVID-19 gây ra mới đây, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã nhận định: “Nếu Việt Nam không đầu tư phát triển, kể cả đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, thì không bao giờ thành công. Chúng ta chống dịch COVID-19 bước đầu thành công nhưng phải lo phát triển đất nước thì mới đạt thắng lợi kép.”

Tuy nhiên, người đứng đầu Chính phủ cũng khẳng định: “Cứ bình bình, theo cách làm cũ, trì trệ và không đổi mới thì khó thành công. Vì vậy, cần có tư duy mới để đón đầu và đón bắt được dòng đầu tư mới này.”

Tăng niềm tin của các nhà đầu tư

Sau hơn 30 năm mở cửa, thu hút vốn đầu tư nước ngoài, Việt Nam đã gặt hái những thành quả đáng khích lệ. Đến nay, khu vực đầu tư nước ngoài đã trở thành một bộ phận cấu thành của nền kinh tế, góp phần quan trọng vào quá trình phát triển kinh tế-xã hội, tạo việc làm, thu ngân sách cũng như thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu và nâng cao sức cạnh tranh của Việt Nam…

Đến nay, tổng vốn đầu tư nước ngoài đã đăng ký vào Việt Nam đạt hơn 370 tỷ USD; trong đó lượng vốn đã giải ngân đạt khoảng 58%. Riêng năm 2019 vừa qua, Việt Nam thu hút hơn 38 tỷ USD, cao nhất trong vòng 10 năm liên tiếp, tăng 7,2% so với năm 2018. Vốn FDI giải ngân cũng đạt 20,38 tỷ USD, tăng 6,7% và lập kỷ lục mới.

Theo Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, do ảnh hưởng của dịch COVID-19, 5 tháng đầu năm 2020, tổng vốn FDI vào Việt Nam bao gồm vốn đăng ký cấp mới, vốn đăng ký điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt 13,9 tỷ USD, giảm 17% so với cùng kỳ năm trước. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện 5 tháng đầu năm ước tính đạt 6,7 tỷ USD, giảm 8,2% so với cùng kỳ năm trước.

5 tháng đầu năm 2020, tổng vốn FDI vào Việt Nam đạt 13,9 tỷ USD, giảm 17% so với cùng kỳ năm trước   

Bình luận kết quả trên, Cục trưởng Cục Đầu tư nước ngoài Đỗ Nhất Hoàng cho biết kết quả trên là hoàn toàn chấp nhận được trong bối cảnh hoạt động đầu tư toàn cầu suy giảm rất mạnh; một số nền kinh tế rơi vào tăng trưởng âm. Điều đó còn cho thấy niềm tin, mục tiêu hiện diện, làm ăn lâu dài tại Việt Nam là rất mạnh mẽ và đó chỉ là sự sụt giảm tạm thời trong “bão” COVID-19.

Đáng lưu ý, ngày càng xuất hiện những dự án có công nghệ hiện đại, tập trung vào hoạt động nghiên cứu và chế tạo để tạo ra sản phẩm chất lượng, có tác dụng lan tỏa, tham gia đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế.

Đơn cử, Nhà máy sản xuất linh kiện hàng không vũ trụ Sunshine của Tập đoàn UAC (Hoa Kỳ) trị giá 170 triệu USD tại Đà Nẵng vừa khánh thành, đi vào hoạt động hay dự án xây dựng Trung tâm Nghiên cứu-Phát triển của Tập đoàn Samsung tại Hà Nội với số vốn 200 triệu USD là minh chứng cho sự quyết tâm, hướng tới mục tiêu tăng trưởng theo chiều sâu của giới đầu tư nước ngoài. Đây cũng là kết quả tích cực, hiện thực hóa quan điểm thu hút dòng vốn quốc tế theo hướng gia tăng chất lượng, lựa chọn dự án thân thiện với môi trường, nhất là có công nghệ cao của Chính phủ.

Theo Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng, khu vực đầu tư nước ngoài là tác nhân chủ yếu trong việc gia tăng xuất khẩu, đưa nền kinh tế Việt Nam đứng trong nhóm 30 quốc gia xuất khẩu hàng đầu thế giới.

Công nhân sản xuất sản phẩm dệt nhuộm tại Công ty TNHH Dệt nhuộm Jasan Việt Nam (Khu Công nghiệp Phố nối B, Yên Mỹ, Hưng Yên). (Ảnh: Phạm Kiên/TTXVN)
Công nhân sản xuất sản phẩm dệt nhuộm tại Công ty TNHH Dệt nhuộm Jasan Việt Nam (Khu Công nghiệp Phố nối B, Yên Mỹ, Hưng Yên). (Ảnh: Phạm Kiên/TTXVN)

Nhận xét về tầm quan trọng của khu vực đầu tư nước ngoài, giáo sư-tiến sỹ khoa học Nguyễn Mại, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp đầu tư nước ngoài cho rằng có thể lấy Tập đoàn Samsung làm ví dụ cho sự đóng góp của khu vực này. Đến nay, tập đoàn này đã đầu tư 17 tỷ USD vào Việt Nam và thường xuyên chiếm hơn 20% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước thông qua mặt hàng chính điện thoại cao cấp và linh kiện điện tử. Hiện Samsung thu hút hơn 170.000 lao động làm việc trong các nhà máy sản xuất tại Bắc Ninh, Thái Nguyên…

Ông Choi Joo Ho, Tổng giám đốc Samsung Việt Nam, cho biết Samsung luôn đồng hành với các doanh nghiệp Việt Nam, sẵn sàng hợp tác và hỗ trợ kỹ thuật giúp các doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào chuỗi cung ứng, từ đó giúp công nghiệp phụ trợ Việt Nam ngày càng phát triển.

Đặc biệt, từ góc nhìn quốc tế, hiện nay, uy tín và vị thế của Việt Nam đang được đánh giá rất cao qua những thành công đạt được trong phòng, chống đại dịch COVID-19. “Đây là cơ hội để thế giới biết tới Việt Nam với lợi thế đặc biệt về “sự tin cậy chiến lược,” là điểm đến đầu tư an toàn và sẵn sàng đón nhận các dòng vốn chuyển dịch tới Việt Nam,” Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng nhấn mạnh.

Xuất hiện sóng dịch chuyển đầu tư

Cục trưởng Đỗ Nhất Hoàng cho rằng thời cơ thu hút đầu tư nước ngoài là rất lớn và đang xuất hiện rõ ràng. Đây là xu hướng mới của các nhà đầu tư sau bài học phụ thuộc quá nhiều vào một nguồn cung và khi có bất lợi xảy ra thì không có cách nào thay thế. Đa dạng hóa thị trường và nguồn cung đầu vào là lựa chọn phổ biến và sẽ diễn ra trên phạm vi rộng. Sự an toàn cho dòng vốn đầu tư là ưu tiên hàng đầu của nhà đầu tư nước ngoài thời gian tới.

Phó Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp Hàn Quốc tại Việt Nam, ông Hong Sun, khẳng định với thành công trong phòng chống dịch COVID-19 và sự ổn định về môi trường đầu tư-kinh doanh đã nâng tầm Việt Nam lên một bước quan trọng, đầy ấn tượng. Không những thế, tiềm năng của Việt Nam còn rất lớn cũng như còn nhiều dư địa cho nhà đầu tư hợp tác, khai thác nhằm mục đích cùng có lợi.

Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cũng khẳng định tác động từ dịch COVID-19 đã tạo ra nhận thức mới, xu hướng tiêu dùng mới; xuất hiện các mô hình kinh doanh mới, đem lại cơ hội thị trường để hình thành các chuỗi giá trị, liên kết mới và phát triển bứt phá. Đây thực sự là cơ hội giúp các doanh nghiệp Việt Nam nhìn nhận, sát hạch lại năng lực thực sự, sức chống chịu, khả năng thích nghi trước biến cố thị trường, tái cơ cấu sản xuất, chuyển đổi chiến lược.

Dây chuyền hàn khung xe ôtô tại Công ty ôtô Toyota Việt Nam, vốn đầu tư của Nhật Bản tại Vĩnh Phúc. (Ảnh: Danh Lam/TTXVN)
Dây chuyền hàn khung xe ôtô tại Công ty ôtô Toyota Việt Nam, vốn đầu tư của Nhật Bản tại Vĩnh Phúc. (Ảnh: Danh Lam/TTXVN)

Hơn nữa, các Hiệp định Thương mại tự do mới như Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ Xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam-Liên minh châu Âu (EVFTA)… chính thức có hiệu lực sẽ tạo lợi thế lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu, đổi mới trang thiết bị, công nghệ với chi phí hiệu quả hơn nhằm nâng cao năng lực và sức cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam.

Nhiều chuyên gia kinh tế có uy tín trong và ngoài nước đã nhận định, đây là thời cơ quý báu, không dễ gì có được khi Việt Nam đang hội tụ đầy đủ các yếu tố và điều kiện để tạo nên cú hích lớn cho sự phát triển thần kỳ. Chính vì vậy, ngay lúc này Việt Nam cần phải có những hành động nhanh và mạnh hơn để hỗ trợ doanh nghiệp chớp lấy thời cơ “vàng,” nhằm phục hồi và phát triển bứt phá, kích thích tăng trưởng.

Chớp lấy thời cơ “vàng”

Cục trưởng Đỗ Nhất Hoàng cho biết làn sóng đầu tư mới đã xuất hiện và Việt Nam đứng trước cơ hội mới, hứa hẹn sự gia tăng mạnh về kết quả thu hút dòng vốn này. Vấn đề là sự chuẩn bị kỹ càng, có giải pháp đồng bộ, phù hợp để biến cơ hội thành hiện thực, phục vụ mục tiêu lấy lại tốc độ tăng trưởng cao càng sớm càng tốt…

Trước những “cơ hội vàng” để thu hút đầu tư nước ngoài, nhiều ý kiến cho rằng Việt Nam vẫn còn nhiều việc phải làm để đáp ứng nhu cầu nhà đầu tư. Theo đó, Giáo sư-tiến sỹ khoa học Nguyễn Mại cho rằng Việt Nam cần nỗ lực hơn nữa trong cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, tạo thuận lợi và hỗ trợ doanh nghiệp vượt qua những tác động của dịch bệnh COVID-19. Tiếp theo, cần chủ động quảng bá, mời gọi các tập đoàn đa quốc gia, các công ty và thương hiệu tên tuổi đầu tư vào Việt Nam; đặc biệt là từ các khu vực có thế mạnh về công nghệ, vốn, kỹ năng quản lý như Mỹ, EU, Nhật Bản.

Cùng với đó, Việt Nam cần tập trung chuẩn bị mặt bằng, nhất là tại các khu công nghiệp để sẵn sàng đón dự án đầu tư nước ngoài bên cạnh sự đồng bộ về hạ tầng giao thông, khả năng cung cấp điện, nước, thông tin liên lạc…

Theo ông Phan Hữu Thắng, nguyên Cục trưởng Đầu tư nước ngoài, để đón dòng vốn nước ngoài nhanh chóng, Việt Nam cần tăng cường xúc tiến đầu tư thông qua các cơ quan ngoại giao. Cùng với đó, tập trung giải quyết nhanh các thủ tục hành chính đối với các dự án có quy mô lớn đang đàm phán, xin cấp phép đầu tư, cũng như hỗ trợ tích cực giải quyết các vướng mắc phát sinh trong quá trình giải ngân của dự án đã cấp phép.

Tiến sỹ Võ Trí Thành, nguyên Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) nhìn nhận Việt Nam cần đón được cơ hội từ sự dịch chuyển dòng vốn thì việc phục hồi kinh tế, xử lý hiệu quả những đại dự án yếu kém thua lỗ, khắc phục trần nợ công, tái cấu trúc nền kinh tế… cũng phải có giải pháp nhanh và cơ chế đặc biệt.

Nếu nhanh chúng ta mới “đón được đại bàng tới làm tổ,” còn đi chậm có thể chỉ “đón được chim sẻ” (Tiến sỹ Võ Trí Thành)

“Không phải ngẫu nhiên, Thủ tướng thành lập Tổ công tác đặc biệt về thu hút FDI và giao các cơ quan chức năng xây dựng ngay đề án này nhằm đón làn sóng dịch chuyển sản xuất sang Việt Nam sau đại dịch. Và nếu nhanh chúng ta mới “đón được đại bàng tới làm tổ,” còn đi chậm có thể chỉ “đón được chim sẻ”…,” ông Thành nhấn mạnh.

Để tăng cường thu hút FDI, tại cuộc họp Thường trực Chính phủ về tình hình, triển vọng và các giải pháp thu hút đầu tư nước ngoài ứng phó với các thách thức toàn cầu do COVID-19 vừa diễn ra cuối tháng 5, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc nêu rõ trong thu hút phát triển ở đất nước còn nghèo, “nhân vô thập toàn,” không thể có một hạ tầng hoàn thiện, một cơ chế hoàn thiện, thì “chúng ta biết tạo nên một sức mạnh từ lợi thế của Việt Nam” và phải làm nhanh hơn, tốt hơn.

Thủ tướng nhấn mạnh các ngành, các địa phương phải đón bắt, đón đầu dòng vốn đầu tư mới này. Chúng ta phải nghĩ xem nhà đầu tư cần gì để bàn bạc, hợp tác, đáp ứng đúng điều họ cần để phát triển thành công, mang lại lợi ích cho cả 2 phía. Các nước đang cạnh tranh quyết liệt, chúng ta phải có các ưu đãi mang tính cạnh tranh. Đồng thời thu hút đầu tư có chọn lọc, hướng vào các tập đoàn đa quốc gia lớn, công nghệ cao, hiện đại, thân thiện môi trường.

“Với những yêu cầu này, phải xây dựng ngay đề án để Thủ tướng có sự chỉ đạo chung trên tinh thần là nhanh và mạnh hơn, đặc biệt, đề án phải giải quyết các điểm nghẽn của nhà đầu tư như vấn đề mặt bằng, nguồn nhân lực…,” Thủ tướng Chính phủ chỉ rõ./.

(Nguồn: TTXVN)
(Nguồn: TTXVN)

Việt Nam

điểm đến hấp dẫn mới của các nhà đầu tư

Thúy Hiền

Đại dịch COVID-19 đã tác động toàn bộ đến nền kinh tế thế giới, trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, bằng sự nỗ lực của chính các doanh nghiệp cũng như sự hỗ trợ của Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương, các doanh nghiệp trong nước cũng như doanh nghiệp FDI đã vượt qua khó khăn, duy trì sản xuất kinh doanh theo đúng tinh thần của Chính phủ là chống dịch nhưng vẫn duy trì sản xuất kinh doanh.

Để hiểu rõ hơn, về sự chuyển dịch dòng vốn đầu tư cũng như những cơ hội từ Hiệp định thương mại tự do Việt Nam-Liên minh châu Âu (EVFTA) và Hiệp định Bảo hộ đầu tư Việt Nam-Liên minh châu Âu (EVIPA) mang lại… Phóng viên đã có cuộc trao đổi với Cục trưởng Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu tư Đỗ Nhất Hoàng xung quanh những nội dung này.

– Thưa ông, trong những tháng đầu năm, không chỉ kinh tế Việt Nam mà kinh tế toàn cầu đã chịu tác động không nhỏ bởi đại dịch COVID-19. Vậy ông đánh giá như thế nào về tác động của dịch đến thu hút FDI của Việt Nam trong thời gian qua?

Cục trưởng Đỗ Nhất Hoàng: Đại dịch COVID-19 đã tác động toàn bộ đến nền kinh tế thế giới, các hoạt động sản xuất bị đình trệ, chuỗi cung ứng toàn cầu bị gián đoạn, đã làm ảnh hưởng đến các hoạt động kinh tế xã hội tại nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam.

Tuy nhiên, bằng sự nỗ lực của chính các doanh nghiệp cũng như sự hỗ trợ kịp thời của Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương, các doanh nghiệp trong nước cũng như doanh nghiệp FDI đã từng bước vượt qua khó khăn, duy trì sản xuất kinh doanh theo đúng tinh thần của Chính phủ là chống dịch nhưng vẫn duy trì sản xuất kinh doanh.

Trong 5 tháng đầu năm, tổng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam bao gồm vốn đăng ký cấp mới, vốn đăng ký điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt 13,9 tỷ USD, giảm 17% so với cùng kỳ năm trước. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện 5 tháng đầu năm ước tính đạt 6,7 tỷ USD, giảm 8,2% so với cùng kỳ năm trước.

So với thế giới thì mức giảm này chưa nhiều. Đặc biệt, kết quả thu hút FDI trong 5 tháng đầu năm có những tín hiệu tích cực như: số tổng số vốn đăng ký cấp mới của các dự án tăng 15%, vốn của các dự án đăng ký tăng thêm tăng 32%, và số lượt góp vốn cổ phần của doanh nghiệp tăng 12%, chứng tỏ các doanh nghiệp đầu tư vẫn đang cố gắng trong tình trạng bình thường.

Dây chuyền sản xuất hàng may mặc xuất khẩu tại Công ty TNHH May Accasette Garment, vốn đầu tư của Đài Loan (Trung Quốc), tại khu công nghiệp Sóng Thần 3. (Ảnh: Danh Lam/TTXVN)
Dây chuyền sản xuất hàng may mặc xuất khẩu tại Công ty TNHH May Accasette Garment, vốn đầu tư của Đài Loan (Trung Quốc), tại khu công nghiệp Sóng Thần 3. (Ảnh: Danh Lam/TTXVN)

Đây là sự nỗ lực của các doanh nghiệp, cùng với sự quyết liệt cải thiện môi trường đầu tư mạnh mẽ, cũng như có những hỗ trợ kịp thời của Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương cho các doanh nghiệp trong thời gian vừa qua. Bên cạnh đó, việc xử lý dịch COVID-19 rất tích cực, hiệu quả của Việt Nam đã củng cố thêm nhận định: Việt Nam đang là điểm đến hấp dẫn và an toàn.

Tôi tin rằng sau khi Việt Nam mở lại đường bay quốc tế, các nhà đầu tư sẽ vào Việt Nam và dòng đầu tư nước ngoài sẽ tăng trưởng trở lại vào cuối năm nay và tiếp tục tạo đà cho những năm tiếp theo.

– Hiện, đang có xu hướng dịch chuyển luồng vốn đầu tư sang Ấn Độ và các nước ASEAN giai đoạn “hậu COVID-19.” Theo ông, cơ hội của Việt Nam trong việc đón làn sóng đầu tư này ra sao?

Cục trưởng Đỗ Nhất Hoàng: Thực ra, chúng ta cần nói đến tái cơ cấu đầu tư của các doanh nghiệp. Các tập đoàn trên thế giới đã tái cơ cấu đầu tư từ nhiều năm nay để tối ưu hóa hiệu quả đầu tư kinh doanh.

Khoảng 7-8 năm trước, các doanh nghiệp, tập đoàn này đã thực hiện chính sách tái cơ cấu đầu tư, khi đó chúng ta đã nghe nhiều về chiến lược China +1 và Thái Lan +1. Sau đó, khi Việt Nam đàm phán hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) một số các nhà đầu tư đã đưa dòng vốn này sang Việt Nam để tận dụng cơ hội từ Hiệp định này. Tiếp đế, do xung đột thương mại giữa các nền kinh tế lớn trên thế giới, các tập đoàn lại tiếp tục đẩy nhanh quá trình tái cơ cấu để tránh việc bị áp thuế cao từ Hoa Kỳ.

“Tôi tin rằng sau khi Việt Nam mở lại đường bay quốc tế, các nhà đầu tư sẽ vào Việt Nam và dòng đầu tư nước ngoài sẽ tăng trưởng trở lại vào cuối năm nay” (Cục trưởng Đỗ Nhất Hoàng)

Và lần này, do dịch COVID-19 tác động đến chuỗi cung ứng toàn cầu, các doanh nghiệp nhận thấy cần tránh sự phụ thuộc vào một quốc gia, một địa bàn, một đối tác nên các doanh nghiệp đã đẩy nhanh quá trình tái cơ cấu để mở ra một địa bàn khác nhằm tránh sự rủi ro trong ngắn hạn và dài hạn.

Tôi cho rằng sự chuyển dịch này là sự tái cơ cấu một cách tự nhiên trong đầu tư kinh doanh của bất cứ một tập đoàn, doanh nghiệp nào. Điều này mở ra cơ hội cho nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, dòng chuyển dịch hoặc tái cơ cấu này không đương nhiên đến với chúng ta mà còn phụ thuộc vào khả năng hấp thụ của mỗi quốc gia, mỗi địa phương.

– Đang có dòng vốn dịch chuyển như vậy, theo ông, lợi thế của Việt Nam so với một số nước trong khu vực ASEAN được đánh giá như thế nào?

Cục trưởng Đỗ Nhất Hoàng: Trong khu vực ASEAN, Việt Nam là một điểm sáng, đã được các nhà đầu tư đánh giá cao do có một số lợi thế như: là nước có nền chính trị ổn định; tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững trong nhiều năm; nguồn nhân lực dồi dào; thị trường rộng lớn, mức thu nhập bình quân đầu người ngày càng cao; hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới; có nhiều ưu đãi và chi phí mang tính cạnh tranh. Và Việt Nam có vị trí chiến lược, nằm ở trung tâm của khu vực Đông Nam Á.

Công nhân sản xuất sản phẩm dệt nhuộm tại Công ty TNHH Dệt nhuộm Jasan Việt Nam (Khu Công nghiệp Phố nối B, Yên Mỹ, Hưng Yên). (Ảnh: Phạm Kiên/TTXVN)
Công nhân sản xuất sản phẩm dệt nhuộm tại Công ty TNHH Dệt nhuộm Jasan Việt Nam (Khu Công nghiệp Phố nối B, Yên Mỹ, Hưng Yên). (Ảnh: Phạm Kiên/TTXVN)

Cùng với quá trình đổi mới, Việt Nam luôn cải cách, cải thiện môi trường đầu tư. Và đến nay, Việt Nam đang càng có những cải cách về chính sách hơn nữa. Ví dụ như: Quốc hội đang xem xét và thông qua tại kỳ họp lần này các Luật Đầu tư sửa đổi, Luật Doanh nghiệp sửa đổi, Luật Đầu tư theo hình thức đối tác công-tư (PPP)… những bộ luật này sẽ có tác động tích cực đến nền kinh tế. Đặc biệt, trong dự thảo Luật Đầu tư (sửa đổi) với nhiều điểm mới, tăng cường phân cấp, đa dạng hơn hình thức đầu tư, ưu đãi, hỗ trợ đầu tư; đồng thời, có những quy định theo hướng nhằm thu hút đầu tư FDI có chọn lọc, có chất lượng theo tinh thần Nghị quyết 50-NQ-TW năm 2019 về định hướng hoàn thiện thế chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030 do Ban chấp hành Trung ương ban hành… Điều đó chứng minh cho thấy Việt Nam là điểm đến hấp dẫn và an toàn để đầu tư, kinh doanh.

– Để đón làn sóng này, theo ông, Việt Nam cần có những giải pháp gì?

Cục trưởng Đỗ Nhất Hoàng: Do dịch COVID-19, nên các doanh nghiệp muốn đẩy nhanh quá trình tái cơ cấu để lấp ngay vào sự đứt gẫy của chuỗi cung ứng. Theo đó, các doanh nghiệp rất quan tâm đến đất công nghiệp để xây dựng nhà máy; nguồn nhân lực có chất lượng cao; cần có những ưu đãi, hỗ trợ mang tính cạnh tranh vàcần thực thi các thủ tục nhanh chóng để sớm triển khai hoạt động sản xuất kinh doanh. Nắm bắt được nhu cầu đó, Quốc hội, Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương đều đang rất khẩn trương để điều chỉnh chính sách, cũng như những điều kiện cần thiết để đón dòng chuyển dịch này.

Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng đã đề xuất 4 nhóm giải pháp. Một là nhóm giải pháp liên quan đến xúc tiến đầu tư. Hai là nhóm thu hút đầu tư có chọn lọc. Theo đó, Bộ sẽ thu hút những dự án có giá trị gia tăng cao, có tính lan tỏa, kết nối doanh nghiệp trong nước và nước ngoài, đóng góp vào phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam. Ba là nhóm cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh và chuẩn bị điều kiện để đón các nhà đầu tư và cuối cùng là liên quan đến ưu đãi hỗ trợ đầu tư. Hiện Luật Đầu tư sửa đổi và các Luật khác có liên quan đã bổ sung những ưu đãi mang tính cạnh tranh tạo thuận lợi hơn cho các nhà đầu tư.

– Thưa ông, Quốc hội vừa thông qua Nghị quyết phê chuẩn hai Hiệp định EVFTA và EVIPA. Theo ông, việc phê chuẩn 2 hiệp định này có mở ra một cơ hội để Việt Nam tăng cường thu hút đầu tư?

Cục trưởng Đỗ Nhất Hoàng: Như chúng ta đã biết dịch COVID-19 vừa qua đã làm đứt gẫy nguồn cung cầu trên thế giới. Hiệp định EVFTA và EVIPA vừa thông qua sẽ mở ra một giai đoạn mới là khi các doanh nghiệp châu Âu đầu tư vào Việt Nam sẽ được hưởng cơ chế bảo hộ theo Hiệp định và khi xuất khẩu hàng hóa sang các nước EU thì sẽ được hưởng thuế suất ưu đãi đặc biệt.

Tôi cho rằng đây là thời điểm rất phù hợp để các doanh nghiệp tăng cường hợp tác đầu tư thương mại giữa Việt Nam và EU.

– Xin ông cho biết những triển vọng thu hút đầu tư của khu vực EU vào Việt Nam sau khi hai Hiệp định EVFTA và EVIPA có hiệu lực?

Cục trưởng Đỗ Nhất Hoàng: Trong số các nước đầu tư vào Việt Nam, hiện nay, khu vực EU đầu tư vào Việt Nam khoảng hơn 25 tỷ USD, tuy chưa phải là nhiều nhưng tiềm năng quan hệ kinh tế giữa hai bên là rất lớn. Các doanh nghiệp Châu Âu có tiềm lực tài chính với công nghệ tiên tiến, quản trị hiện đại và sẵn có thị trường rộng lớn. Những điều này có tính bổ trợ với thế mạnh và nhu cầu thu hút đầu tư nước ngoài của Việt Nam.

Với những cơ chế bảo hộ và ưu đãi đặc biệt từ Hiệp định EVFTA và EVIPA, cùng với những nỗ lực cải thiện môi trường đầu tư của Việt Nam, tôi tin tưởng rằng sau khi Hiệp định này có hiệu lực sẽ mở ra một giai đoạn mới để cho các nhà đầu tư của EU sẽ quan tâm hơn nữa và hiện thực hóa những lợi ích do Hiệp định mang lại.

Phóng viên: Xin cám ơn ông!

Dây chuyền sản xuất hàng may mặc xuất khẩu tại Công ty TNHH May Accasette Garment, vốn đầu tư của Đài Loan (Trung Quốc), tại khu công nghiệp Sóng Thần 3 (Bình Dương). (Ảnh: Danh Lam/TTXVN)
Dây chuyền sản xuất hàng may mặc xuất khẩu tại Công ty TNHH May Accasette Garment, vốn đầu tư của Đài Loan (Trung Quốc), tại khu công nghiệp Sóng Thần 3 (Bình Dương). (Ảnh: Danh Lam/TTXVN)

Tạo lực hút đầu tư từ yếu tố không truyền thống

Hoàng Tuấn

Với những thành công bước đầu trong việc ngăn chặn dịch COVID-19, cùng với những yếu tố “thiên thời, địa lợi, nhân hòa,” nhất là trong bối cảnh Quốc hội vừa phê chuẩn Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam-Liên minh châu Âu (EVFTA) và Hiệp định Bảo hộ đầu tư Việt Nam-Liên minh châu Âu (EVIPA), Thành phố Hồ Chí Minh được các chuyên gia kinh tế đánh giá là điểm đến lý tưởng cho các nhà đầu tư nước ngoài trong thời gian tới.

Tận dụng vị trí “địa lợi”

Thực hiện nhiệm vụ kép vừa phòng chống dịch hiệu quả vừa tập trung khôi phục, thúc đẩy phát triển kinh tế, ngay trong và sau dịch COVID-19, Thành phố Hồ Chí Minh đã triển khai nhiều nhóm giải pháp đồng bộ nhằm hỗ trợ doanh nghiệp thành phố vượt qua khó khăn, đồng thời đẩy mạnh các hoạt đông xúc tiến thương mại, tìm kiếm thị trường mới và chuẩn bị các điều kiện cần thiết, “lót ổ” sẵn sàng đón các dòng đầu tư mới.

Theo Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, trong 5 tháng đầu năm nay, tổng vốn đầu tư nước ngoài vào Thành phố Hồ Chí Minh đạt 1,6 tỷ USD, bằng 57,7% tổng vốn so với cùng kỳ năm trước; trong đó, có 450 dự án cấp mới với vốn đăng ký đạt 248,6 triệu USD; điều chỉnh vốn đầu tư có 80 lượt dự án với số vốn tăng thêm 122 triệu USD; góp vốn, mua cổ phần có 1.923 trường hợp với tổng vốn gần 1.232 triệu USD.

Nhật Bản là quốc gia dẫn đầu có nhà đầu tư vào thành phố với 44 dự án, thu hút vốn đầu tư 80,5 triệu USD, tiếp đến là Singapore  có 70  dự  án với vốn đầu  tư 50,8  triệu  USD; Hong Kong (Trung Quốc) có  37  dự  án với vốn đầu  tư  31,5  triệu  USD; Hàn Quốc có 74 dự án với vốn đầu tư 16,4 triệu USD…

Thực tế trên cho thấy trong thời điểm khó khăn, Thành phố Hồ Chí Minh vẫn thu hút được rất nhiều dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Theo Ban quản lý các Khu chế xuất-khu công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh (Hepza), các khu chế xuất, khu công nghiệp, khu công nghệ cao của thành phố đã có sự chuẩn bị để đón nhận làn sóng mới này. Nhà xưởng ở các khu công nghiệp Tân Phú Trung, Đông Nam, Lê Minh Xuân 3… đang tích cực xây dựng, hoàn thiện để đón nhà đầu tư mới; trong đó, có nhiều khu nhà cao tầng phục vụ doanh nghiệp đầu tư lĩnh vực công nghệ cao.

Dây chuyền sản xuất yên xe đạp xuất khẩu tại một doanh nghiệp có vốn đầu tư của Đài Loan (Trung Quốc). (Ảnh: Danh Lam/TTXVN)
Dây chuyền sản xuất yên xe đạp xuất khẩu tại một doanh nghiệp có vốn đầu tư của Đài Loan (Trung Quốc). (Ảnh: Danh Lam/TTXVN)

“Từ đầu năm đến nay một số nhà đầu tư nước ngoài đã đến tìm hiểu thông tin về việc thuê các khu đất có diện tích lớn trong các khu chế xuất, khu công nghiệp thành phố để chuẩn bị mặt bằng cho dự án đầu tư trong thời gian tới. Ngoài ra, một số doanh nghiệp công nghệ hỗ trợ trong khu công nghệ cao cũng có xu hướng đầu tư các nhà xưởng cao tầng tại các khu chế xuất, khu công nghiệp để phục vụ hoạt động sản xuất,” ông Trần Việt Hà, Trưởng phòng Quản lý Đầu tư của Hepza cho biết.

Để chuẩn bị sẵn quỹ đất nhằm thu hút đầu tư, ông Dương Anh Đức, Phó Chủ tịch Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh vừa giao Sở Quy hoạch-Kiến trúc thành phố rà soát các khu công nghiệp, khu chế xuất để tìm ra giải pháp tạo quỹ đất thu hút đầu tư, đồng thời phối hợp với các bộ, ngành liên quan hỗ trợ thành phố xây dựng khu công nghiệp ứng dụng công nghệ cao tại xã Phạm Văn Hai, huyện Bình Chánh với quy mô hơn 380ha.

“Đây là khu công nghiệp có chất lượng và tính cạnh tranh cao phù hợp với các doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao và hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo,” ông Đức nhấn mạnh.

Về lâu dài, thành phố đẩy nhanh việc rà soát, chuyển đổi 26.000ha đất nông nghiệp sang đất công nghiệp, dịch vụ; trong đó, chú trọng đẩy nhanh đầu tư các dự án khu công nghiệp đã được Thủ tướng chấp thuận trong quy hoạch và tiếp tục đề nghị Thủ tướng Chính phủ bổ sung vào quy hoạch một số khu công nghiệp mới. Mặt khác, tăng cường vai trò trung tâm của thành phố trong vùng Thành phố Hồ Chí Minh và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam; trong đó, đẩy mạnh việc hợp tác với các địa phương trong kết nối thông suốt hệ thống hạ tầng giao thông.

Phát huy yếu tố “thiên thời”

Cùng với cả nước, Thành phố Hồ Chí Minh đã chủ động thực hiện các biện pháp phòng chống dịch COVID-19 có hiệu quả, sớm đưa các hoạt động trở lại trạng thái bình thường mới. Đây là yếu tố quan trọng, giúp Thành phố Hồ Chí Minh trở thành một điểm đến an toàn cho các nhà đầu tư.

Việc Quốc hội vừa phê chuẩn hai Hiệp định EVFTA và EVIPA đã mở ra nhiều cơ hội đón dòng đầu tư mới từ châu Âu đến Viêt Nam nói chung và Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng. Theo ông Chu tiến Dũng, Chủ tịch Hội doanh nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh, thành phố sẽ là trung tâm kết nối giao thương, phát triển và cung cấp các dịch vụ về tài chính, công nghệ và nhân lực chất lượng cao cho các hoạt động hợp tác thương mại, đầu tư giữa Việt Nam và EU trong thời gian tới.

Ông John Campbell, Trưởng bộ phận Bất động sản công nghiệp, Savills Việt Nam đánh giá: “Cụ thể hơn, EVFTA tạo điều kiện cho nền kinh tế Việt Nam chuyển đổi từ việc xuất khẩu các sản phẩm giá trị thấp sang hàng hóa có giá trị cao hơn như các thiết bị công nghệ cao, điện tử, xe cộ và y tế.”

Dây chuyền sản xuất linh kiện điện tử. (Ảnh: Hoàng Hùng/TTXVN)
Dây chuyền sản xuất linh kiện điện tử. (Ảnh: Hoàng Hùng/TTXVN)

“Cách mạng thương mại toàn cầu sẽ giúp Việt Nam tiếp cận với nhiều đối tác khác nhau, cho phép nhập khẩu đầu vào hoặc hàng hóa trung gian rẻ hơn, từ đó sẽ thúc đẩy khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu. Ngoài ra, thông qua việc gia tăng mối quan hệ đối tác với các công ty nước ngoài, Việt Nam có thể gặt hái những lợi ích của việc chuyển giao kiến thức và công nghệ đi kèm với các khoản đầu tư như vậy,” Trưởng bộ phận Bất động sản công nghiệp, Savills Việt Nam chia sẻ.

Trong bối cảnh đó, Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xác định ưu tiên thu hút đầu tư các dự án có năng lực đổi mới sáng tạo và năng lực quản trị tiên tiến; khuyến khích đầu tư phát triển các ngành nghề sản xuất kinh doanh tạo động lực trực tiếp cho tăng trưởng, năng lực cạnh tranh kinh tế như công nghệ cao, lĩnh vực thâm dụng khoa học công nghệ. Theo đó, thành phố thu hút có chọn lọc các tập đoàn, công ty có quy mô lớn, có trình độ khoa học công nghệ cao vào đầu tư. Qua đó, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ Việt Nam tham gia cung ứng cho các doanh nghiệp này.

Bên cạnh tiếp tục cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư, kinh doanh, Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã thành lập tổ công tác liên ngành về đầu tư. Đây là tổ công tác đặc biệt do Chủ tịch Ủy ban Nhân dân thành phố làm tổ trưởng có nhiệm vụ hỗ trợ, xử lý toàn bộ thủ tục đầu tư cho doanh nghiệp đến khi dự án được cấp phép hoạt động. Doanh nghiệp chỉ cần nộp hồ sơ và nhận kết quả tại Tổ công tác. Tổ công tác đặt ra mục tiêu giảm ít nhất 50% thời gian xử lý so với quy định.

Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã yêu cầu TP.HCM xác định hướng đi chính là công nghiệp công nghệ cao; đón bắt, tận dụng tốt cơ hội chuyển dịch sản xuất của các tập đoàn, chuỗi giá trị toàn cầu đến khu vực Đông Nam Á

Về chính sách ưu đãi, khuyến khích đầu tư, đặc biệt là đầu tư nước ngoài, thành phố nghiên cứu, đề xuất Trung ương cho phép thành phố một số đặc thù để thu hút đầu tư, các cơ chế mới không dựa vào yếu tố truyền thông để thu hút đầu tư (như ưu đãi về tiền sử dụng đất, ưu đãi thuế cho doanh nghiệp) mà tạo ra sự thuận lợi hơn về luân chuyển các nguồn lực và dỡ bỏ hạn chế về thị trường.

Chẳng hạn như các cơ chế về thu hút nguồn lực lao động chất lượng cao từ nước ngoài đến thành phố làm việc; cơ chế cho phép thành phố thẩm quyền xét duyệt, chấp thuận các dự án đầu tư nước ngoài mà Việt Nam chưa cam kết mở cửa thị trường hoặc các điều kiện mở cửa còn chặt; các cơ chế thông thoáng hơn về ngoại hối để thu hút các tập đoàn tài chính, các quỹ đầu tư và các ngân hàng nước ngoài về hoạt động…

Kết luận buổi làm việc với lãnh đạo Thành phố Hồ Chí Minh vào đầu tháng 5/2020 vừa qua, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã yêu cầu Thành phố Hồ Chí Minh xác định hướng đi chính là công nghiệp công nghệ cao; đón bắt, tận dụng tốt cơ hội chuyển dịch sản xuất của các tập đoàn, chuỗi giá trị toàn cầu đến khu vực Đông Nam Á; tạo mọi thuận lợi để phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, công nghiệp hỗ trợ.

Thủ tướng Chính phủ đề nghị thành phố tập trung chiến lược thu hút FDI có chọn lọc phù hợp với định hướng phát triển; không thu hút bằng mọi giá, tận dụng hiệu quả những xu thế dịch chuyển dòng vốn đầu tư mới sau dịch COVID-19. Ngoài ra, Thành phố Hồ Chí Minh đẩy nhanh quá trình xây dựng chính quyền điện tử và chuyển đổi số, kinh tế số để xứng tầm thành phố thông minh, đi đầu về ứng dụng công nghệ 4.0./.

Công nhân sản xuất linh kiện điện tử tại Công ty TNHH 4P. (Ảnh: Phạm Kiên/TTXVN)
Công nhân sản xuất linh kiện điện tử tại Công ty TNHH 4P. (Ảnh: Phạm Kiên/TTXVN)

Tận dụng thời cơ, 

đón ‘sóng’

Văn Cảnh-Nguyễn Thắng

Nhiều năm qua, Hà Nội nói riêng và Việt Nam nói chung được xem là điểm đến hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài không chỉ bởi môi trường chính trị an toàn, ổn định, mà còn có chính sách thu hút đầu tư thông thoáng. Đặc biệt, sau thành công trong việc kiểm soát đại dịch COVID-19, các nhà đầu tư nước ngoài đang có ấn tượng rất tốt đối với Hà Nội, nhất là trong bối cảnh có xu hướng dịch chuyển đầu tư trong khu vực và toàn cầu. Do đó, Hà Nội đã chuẩn bị mọi điều kiện thuận lợi nhất để đón “sóng” đầu tư nước ngoài sau đại dịch COVID-19.

Nắm bắt cơ hội

Theo báo cáo của Ủy ban Nhân dân thành phố Hà Nội, trong những tháng đầu năm 2020, Hà Nội tiếp tục đầy mạnh cải cách thủ tục hành chính, chú trọng cải thiện môi trường đầu tư, thực hiện nhiều giải pháp tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp nhất là thủ tục hành chính. Nhờ đó, thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của Hà Nội tiếp tục có những tín hiệu khả quan.

Tính chung từ đầu năm đến ngày 19/5, Hà Nội đã thu hút 1.045 triệu USD vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài; trong đó có 255 dự án được cấp mới với số vốn đăng ký 327 triệu USD.

Các chuyên gia kinh tế cùng chung nhận định trong 5 tháng đầu năm nay, mặc dù bị ảnh hưởng bởi đại dịch COVID-19 nhưng Hà Nội đã tiếp tục thu hút vốn đầu tư nước ngoài với kết quả đang ghi nhận.

Tính chung từ đầu năm đến ngày 19/5, Hà Nội đã thu hút 1.045 triệu USD vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài

Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) Vũ Tiến Lộc cho rằng trong bối cảnh dịch COVID-19 còn tác động đến sản xuất, kinh doanh thì kết quả trên đáng ghi nhận, khẳng định nỗ lực cải cách hành chính, cải thiện chất lượng môi trường đầu tư và quyết tâm đồng hành với doanh nghiệp của chính quyền thành phố Hà Nội.

Chủ tịch Ủy ban Nhân dân thành phố Hà Nội Nguyễn Đức Chung cũng cho biết ngay từ tháng 2/2020, nhận định Việt Nam sẽ có ưu thế hơn các quốc gia khác trên thế giới về kiểm soát dịch nên Hà Nội đã triển khai nhiều giải pháp để thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội; trong đó có giải pháp chuẩn bị đón nguồn vốn đầu tư, nhất là vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong giai đoạn đầu sau đại dịch COVID-19.

Hà Nội cũng đã dự báo những ngành kinh tế có thể phát triển sau đại dịch COVID-19 như công nghiệp điện tử, công nghệ thông tin… nên đã có sự quan tâm, tạo ra nhiều cơ hội đảm bảo lợi ích cho doanh nghiệp, để giữ “chân” và tiếp tục mở rộng đầu tư.

Đáng chú ý, mặc dù gặt hái những kết quả đáng ghi nhận trong thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, nhưng thành phố đã quyết liệt cải thiện môi trường kinh doanh, với các nhóm công việc chính là cải cách hành chính, hỗ trợ doanh nghiệp và chia sẻ cơ hội đầu tư. Đặc biệt, để đón “sóng” đầu tư, dự kiến ngày 27/6, Hà Nội sẽ tổ chức hội nghị “Hà Nội 2020-Hợp tác đầu tư và phát triển” tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia.

Qua hội nghị, thành phố tiếp tục thể hiện quyết tâm là địa phương tiên phong đi đầu trong phục hồi và phát triển kinh tế sau dịch bệnh trong năm 2020.

Sản xuất đồ gỗ xuất khẩu tại huyện Đông Anh (Hà Nội). (Ảnh: Đỗ Phương Anh/TTXVN)
Sản xuất đồ gỗ xuất khẩu tại huyện Đông Anh (Hà Nội). (Ảnh: Đỗ Phương Anh/TTXVN)

Đồng quan điểm với người đứng đầu chính quyền thành phố Hà Nội về việc đón “sóng” đầu tư, ông Ousmane Dione, Giám đốc Quốc gia Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam cho rằng Hà Nội cũng như Việt Nam đã kiểm soát rất tốt đại dịch COVID-19, do đó Hà Nội nên nắm bắt thời cơ, có những chính sách tận dụng cơ hội này thu hút đầu tư toàn cầu để phát triển.

Nhấn mạnh nhiều quốc gia trên thế giới đang nỗ lực phục hồi nền kinh tế và Việt Nam cũng đang hành động rất nhanh, ông Ousmane Dione cũng cho biết thời điểm cơ hội chuyển dịch, thu hút đầu tư rất ngắn nên Hà Nội cần có sự chỉ đạo, hành động sớm, kịp thời nắm bắt thời cơ.

Có thể nhận định Hà Nội đã và đang xác định rõ chủ trương cộng đồng doanh nghiệp nói chung, cộng đồng doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nói riêng là động lực quan trọng cho sự phát triển của Thủ đô. Thành phố định hướng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài theo chiều sâu gắn với mục tiêu phát triển bền vững; trong đó ưu tiên những dự án chất lượng, sản phẩm có giá trị gia tăng và có tính cạnh tranh cao, nhất là trong bối cảnh có sự dịch chuyển dòng đầu tư từ các chuỗi cung ứng toàn cầu sau đại dịch COVID-19.

Tạo môi trường đầu tư thông thoáng và an toàn

Kết luận số 77-KL/TW ban hành ngày 5/6/2020 của Bộ Chính trị về chủ trương khắc phục tác động của đại dịch COVID-19 để phục hồi và phát triển nền kinh tế đất nước nêu rõ: “Chủ động, có cơ chế, chính sách, hoàn thiện hạ tầng cơ sở, cung ứng các dịch vụ hỗ trợ nhằm thu hút, hợp tác đầu tư nước ngoài có chọn lọc, bảo đảm chất lượng, hiệu quả và bảo vệ môi trường, sinh thái, nhất là từ các tập đoàn lớn, các công ty đa quốc gia có công nghệ cao, tiềm lực mạnh, đứng đầu hoặc chi phối các mạng sản xuất, chuỗi giá trị khu vực, toàn cầu.”

Tiếp thu chỉ đạo của Bộ Chính trị, Hà Nội đã tập trung cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, hỗ trợ doanh nghiệp tối đa. Các đơn vị có liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp đều chú trọng cắt giảm thời gian, chi phí thủ tục hành chính liên quan đến doanh nghiệp. Tinh thần này được cụ thể hóa ở mỗi cấp, ngành với trách nhiệm cao nhất, để chuẩn bị mọi điều kiện thuận lợi nhất đón “sóng” đầu tư nước ngoài sau đại dịch COVID-19.

Cụ thể, để duy trì Chỉ số năng lực cạnh cấp tỉnh (PCI) năm 2020 trong nhóm 10 tỉnh, thành phố dẫn đầu cả nước, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân thành phố Hà Nội Nguyễn Đức Chung đã yêu cầu các sở, ban, ngành, Ủy ban Nhân dân các quận, huyện, thị xã triển khai hiệu quả Kế hoạch số 83/KH-UBND ngày 22/4/2020 về thực hiện Nghị quyết 02/NQ-CP của Chính phủ về tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2020 trên địa bàn thành phố Hà Nội.

Bí thư Thành ủy Hà Nội Vương Đình Huệ bàn giải pháp tháo gỡ khó khăn cho các  doanh nghiệp của Thủ đô. (Nguồn: TTXVN)
Bí thư Thành ủy Hà Nội Vương Đình Huệ bàn giải pháp tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp của Thủ đô. (Nguồn: TTXVN)

Đối với Chỉ số “Chi phí gia nhập thị trường,” Ủy ban Nhân dân thành phố Hà Nội giao Sở Kế hoạch và Đầu tư chủ trì triển khai các giải pháp để cải thiện và nâng cao, như giữ vững tỷ lệ 100% tổng số hồ sơ đăng ký doanh nghiệp tiếp nhận thực hiện qua mạng; bảo đảm thời gian giải quyết đúng hạn và sớm trước quy định đối với cả thủ tục đăng ký mới và thủ tục thay đổi đăng ký doanh nghiệp. Thành phố phấn đấu 100% thủ tục hành chính thực hiện dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, mức độ 4; có 30% hồ sơ trực tuyến được giải quyết đạt mức độ 4; có 50% số thủ tục hành chính có quy định tiếp nhận hồ sơ, trả kết quả qua dịch vụ bưu chính công ích…

Về một số chỉ số khác, Ủy ban Nhân dân thành phố Hà Nội giao Sở Tài nguyên và Môi trường chủ trì thực hiện các giải pháp nâng cao kết quả Chỉ số “Tiếp cận đất đai.”

Sở Thông tin và Truyền thông chủ trì, đầu mối theo dõi và triển khai các giải pháp cải thiện Chỉ số “Tính minh bạch,” tham mưu Ủy ban Nhân dân thành phố đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của các cơ quan nhà nước, phát triển Chính quyền điện tử. Sở Nội vụ chủ trì triển khai các giải pháp để cải thiện Chỉ số “Tính năng động của chính quyền tỉnh” và các chỉ tiêu đánh giá về cán bộ công chức…

Đặc biệt, Ủy ban Nhân dân thành phố Hà Nội đã yêu cầu các sở, ban, ngành, Ủy ban Nhân dân các quận, huyện, thị xã cũng phải khẩn trương, nghiêm túc thực hiện công khai, minh bạch thông tin trên trang thông tin điện tử của các đơn vị; cập nhật và hướng dẫn rõ ràng các thông tin về xây dựng, sử dụng đất, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội, các quyết định, chính sách, thủ tục hành chính… Thời hạn hoàn thành việc công khai, cập nhật thông tin là trước ngày 30/6/2020./.

Toàn cảnh Khu công nghiệp Thăng Long Hà Nội. (Ảnh: Danh Lam/TTXVN)
Toàn cảnh Khu công nghiệp Thăng Long Hà Nội. (Ảnh: Danh Lam/TTXVN)

Đại biểu Quốc hội

‘hiến kế’

Uyên Hương-Thành Trung

Việc kiểm soát tốt dịch COVID-19 cùng những lợi thế về phục hồi kinh tế vĩ mô sau dịch đã giúp Việt Nam trở thành điểm đến an toàn trong mắt các nhà đầu tư nước ngoài (FDI).

Bên lề Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XIV, phóng viên TTXVN đã phỏng vấn các đại biểu xung quanh những đánh giá về hiện tượng làn sóng chuyển dịch đầu tư hậu COVID-19 và các giải pháp thích hợp để thu hút dòng vốn hiệu quả.

Đại biểu Bùi Sỹ Lợi: Xu hướng chuyển dịch có thể tăng mạnh

Trong mắt các nhà đầu tư nước ngoài hiện nay, Việt Nam đang là điểm sáng khi kiềm chế, ngăn chặn và kiểm soát được dịch COVID-19. Chính vì lẽ đó, xu hướng chuyển dịch đầu tư từ các nước vào Việt Nam là xu hướng tất yếu và khả năng tăng trưởng trong thời gian tới có thể tăng lên rất nhiều. Vì vậy, Việt Nam cần kêu gọi đầu tư và đây chính là cơ hội để phát triển kinh tế hậu COVID-19. Điều này hết sức quan trọng.

Tuy nhiên, để hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài hậu COVID-19, Việt Nam phải tiếp tục cải cách thể chế, sửa đổi pháp luật, cải cách thủ tục hành chính, tạo ra cơ chế thông thoáng để thu hút các nhà đầu tư.

Bên cạnh đó, cần giải quyết vấn đề về thoả thuận, hợp đồng kêu gọi của Việt Nam để nhà đầu tư cảm thấy được hỗ trợ, không bị ách tắc ở các khâu hành chính.

Đại biểu Đỗ Văn Sinh (Đoàn Quảng Trị): Phối hợp để phát huy hiệu quả

Hiện nay, Việt Nam có nhiều lợi thế về chính trị, kinh tế-xã hội phát triển ổn định. Mặc dù tăng trưởng kinh tế trong quý I chỉ đạt 3,8%, nhưng vẫn cao hơn so với các nước trong khu vực và thế giới. Trong khi đó, hiện có làn sóng chuyển dịch địa bàn đầu tư và đây là cơ hội tốt cho Việt Nam tiếp cận nguồn vốn đầu tư này. Tuy nhiên, Việt Nam cần phải chuẩn bị các điều kiện một cách cụ thể, rõ ràng để có thể đón nhận nguồn vốn.

Trong nhiều năm qua, Quốc hội và Chính phủ rất quyết liệt trong xây dựng hành lang pháp lý đồng bộ, tương thích với luật pháp quốc tế. Hiện tại, Việt Nam đã ký nhiều Hiệp định thương mại tự do và ngay trong Kỳ họp này Quốc hội cũng bàn thảo đến các dự thảo luật quan trọng như: Luật Đầu tư (sửa đổi), Luật Doanh nghiệp (sửa đổi), Luật Xây dựng (sửa đổi). Đây là các luật rất quan trọng ảnh hưởng trực tiếp tới thu hút vốn đầu tư nước ngoài, kể cả vốn đầu tư trong nước.

May hàng xuất khẩu tại một doanh nghiệp vốn đầu tư nước ngoài ở Bình Phước. (Ảnh: Dương Chí Tưởng/TTXVN)
May hàng xuất khẩu tại một doanh nghiệp vốn đầu tư nước ngoài ở Bình Phước. (Ảnh: Dương Chí Tưởng/TTXVN)

Bên cạnh đó, Chính phủ đang thành lập các Ban chỉ đạo để kết nối tất cả hoạt động của các vùng, địa phương, tránh tình trạng chồng lấn trong quá trình thu hút vốn đầu tư.

Cuối cùng, vấn đề quan trọng nhất vẫn là trách nhiệm của người đứng đầu. Nếu các bộ, ngành, địa phương phối hợp chặt chẽ sẽ phát huy hiệu quả trong thu hút vốn đầu tư.

Đại biểu Trần Hoàng Ngân (Đoàn Thành phố Hồ Chí Minh): Chọn lọc thu hút đầu tư

Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam-Liên minh châu Âu (EVFTA) và Hiệp định Bảo hộ đầu tư Việt Nam-Liên minh châu Âu (EVIPA) được Quốc hội phê chuẩn tại kỳ họp này đã tạo ra sự cân bằng cho các nhà đầu tư và những chính sách ưu đãi hết sức thận trọng, đảm bảo hài hòa lợi ích giữa nhà đầu tư nước ngoài và nhà đầu tư trong nước. Nhưng cũng cần phải đưa ra các thể chế để vừa khuyến khích đầu tư trong nước nhưng cũng phải thu hút được đầu tư nước ngoài.

Tuy nhiên, việc thu hút đầu tư nước ngoài cũng phải xây dựng các quy định như thân thiện với môi trường, đảm bảo an ninh quốc phòng… đây là các tiêu chí rất cao cần phải đưa ra.

Bởi trong giai đoạn hiện nay, Việt Nam là một điểm sáng trong việc kiểm soát tốt dịch bệnh COVID-19; thương hiệu quốc gia Việt Nam cũng được đánh giá cao…

Bên cạnh đó, Việt Nam cũng đang là một điểm đến cho quá trình tái cơ cấu các chuỗi giá trị toàn cầu, chuỗi cung ứng toàn cầu.

Công nhân sản xuất lắp ráp các chủng loại xe đầu kéo, xe ben tải nặng từ 8 tấn đến 90 tấn tại Công ty TNHH Liên doanh Maz Asia có vốn đầu tư của Cộng hòa Belarus. (Ảnh: Phạm Kiên/TTXVN)
Công nhân sản xuất lắp ráp các chủng loại xe đầu kéo, xe ben tải nặng từ 8 tấn đến 90 tấn tại Công ty TNHH Liên doanh Maz Asia có vốn đầu tư của Cộng hòa Belarus. (Ảnh: Phạm Kiên/TTXVN)

Việc này thế giới đang tính toán và một trong những tính toán đó là giảm bớt sự phụ thuộc vào một thị trường. Như vậy, Việt Nam cũng không nên vội vàng mở cửa để thu hút các nhà đầu tư ồ ạt, mà cần phải có sự chọn lọc.

Chính vì vậy, Bộ Chính trị đã có Nghị quyết số 50-NQ/TW ngày 20/8/2019 về định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030; Chính phủ cũng có Nghị quyết số 58/NQ-CP ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 50-NQ/TW để chọn lọc các nhà đầu tư.

Tôi cho rằng Việt Nam cần xây dựng các tiêu chí để chọn lọc các nhà đầu tư nước ngoài. Các tiêu chí đó phải thể hiện được các khía cạnh như: đảm bảo chất lượng, công nghệ; thân thiện môi trường, an ninh quốc phòng, kết nối được các doanh nghiệp nước. Do đó, việc tận dụng thời cơ này để thu hút các nhà đầu tư nước nước ngoài là rất tốt nhưng phải đảm bảo đem lại lợi ích quốc gia.

Đại biểu Dương Minh Tuấn (Đoàn Bà Rịa-Vũng Tàu): Cơ hội tiếp nhận làn sóng đầu tư

Sau dịch COVID-19, Việt Nam cũng như một số nước có thể sẽ tiếp nhận rất nhiều làn sóng đầu tư FDI từ một số nước. Tuy nhiên, bên cạnh sự nỗ lực của từng địa phương, Chính phủ cũng rất cố gắng để tạo điều kiện thu hút đầu tư nước ngoài qua cải cách thủ tục hành chính nhanh nhất, gọn nhất có thể.

Theo tôi, giải pháp quan trọng nhất để thu hút đầu tư vẫn là cải cách thủ tục hành chính. Ngoài ra, Quốc hội luôn luôn rà soát điều chỉnh kịp thời các văn bản luật để ngày càng hoàn thiện hơn. Từ đó, Chính phủ và các bộ ngành, địa phương có cơ sở triển khai thực hiện. Qua đây, tạo hành lang thông thoáng cho các doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp ngày càng chủ động hơn và nâng cao năng lực cạnh tranh trong hội nhập kinh tế quốc tế.

Đại biểu Nguyễn Ngọc Phương (Đoàn Quảng Bình): Hệ thống pháp luật vẫn còn nhiều vướng mắc

Theo tôi, thu hút đầu tư nước ngoài là việc làm hết sức quan trọng và là yếu tố cốt yếu để đưa nền kinh tế Việt Nam phát triển nhanh. Đây cũng là cơ hội thu hút vốn, nguồn lực đầu tư và khoa học kỹ thuật từ các nước.Tuy nhiên, trong quá trình thu hút vốn đầu tư nước ngoài vẫn còn nhiều yếu tố cần xem xét như sức cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam.

Cùng với đó, quá trình thực hiện luôn có những cản trở như việc các doanh nghiệp Việt Nam không đủ khả năng cạnh tranh bằng các nước trên thế giới.

Bởi lẽ, các nước trên thế giới chủ yếu là các doanh nghiệp mạnh, tiềm năng lớn nhưng tại Việt Nam chỉ khoảng 5% là doanh nghiệp lớn còn lại là doanh nghiệp vừa và nhỏ.

Thế nhưng, những doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam cũng kém hơn rất nhiều so với doanh nghiệp vừa và nhỏ trên thế giới dẫn đến khó khăn trong thu hút đầu tư.

Dù vậy, không thể không có những quy định pháp luật vì những quy định sẽ mở đường cho các doanh nghiệp Việt Nam nâng cao trách nhiệm, đồng thời phải suy nghĩ, cải cách, định hướng để doanh nghiệp Việt Nam có khả năng cạnh tranh với các nước trên thế giới.

Theo tôi, khi đã có Nghị định, văn bản cụ thể thì các cơ quan truyền thông, cơ quan chức năng phải tích cực tuyên truyền, định hướng và hướng dẫn cho doanh nghiệp ứng dụng, hiểu biết trong việc liên kết với các nước trên thế giới.

Ngoài ra, Chính phủ cũng như các cơ quan quản lý trên cả nước phải có giải pháp quản lý điều hành trong quá trình thực hiện để các doanh nghiệp có cơ hội, định hướng đồng thời được quản lý chặt chẽ trong quá trình thực hiện.

Bộ Chính trị đã có Nghị quyết về thu hút đầu tư đưa ra định hướng hết sức quan trọng. Song hành với đó, Chính phủ đã đưa ra nhiều giải pháp nhằm thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.

Để thực hiện tốt điều này, yếu tố đầu tiên là triển khai Nghị quyết của Đảng; cải cách hệ thống pháp luật vì hệ thống pháp luật đang có những điểm còn vướng mắc trong quá trình thực hiện cần sửa đổi. Bên cạnh đó, doanh nghiệp nước ngoài đến Việt Nam bao giờ cũng vì lợi ích.

Vì vậy, họ thường tìm những vị trí thuận lợi về kinh tế, cơ sở vật chất, đồng thời có những giải pháp vận động nên trong quá trình thực hiện vẫn có những tiêu cực xảy ra./.

Công nhân sản xuất các sản phẩm tại Công ty TNHH may Texhong. (Ảnh: Thế Duyệt/TTXVN)
Công nhân sản xuất các sản phẩm tại Công ty TNHH may Texhong. (Ảnh: Thế Duyệt/TTXVN)