Việt Nam-Hoa Kỳ

vietnamusa2-1594550198-15.jpg

Nhìn lại chặng đường 25 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam-Hoa Kỳ, có thể khẳng định mối quan hệ hợp tác giữa hai nước đã hặt hái được nhiều thành tựu quan trọng, thể hiện trên mọi lĩnh vực từ chính trị, ngoại giao, thương mại, đầu tư, khoa học-công nghệ, an ninh-quốc phòng đến giáo dục-đào tạo, văn hóa, giao lưu nhân dân…

Trong số đó, hợp tác kinh tế-thương mại-đầu tư đã trở thành trọng tâm và là động lực quan trọng cho sự phát triển của quan hệ song phương, với kim ngạch thương mại hàng hóa hai chiều tăng 170 lần, từ 450 triệu USD năm 1995 lên 77,6 tỷ USD vào năm 2019.

Hoa Kỳ hiện là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam đồng thời Việt Nam cũng là thị trường xuất khẩu có tốc độ tăng cao nhất của Hoa Kỳ trong các đối tác Đông Nam Á.

Trong đầu tư, với vị trí chiến lược, sự ổn định vĩ mô và chất lượng sống gia tăng cùng với nguồn lực lao động mạnh mẽ, Việt Nam đã thu hút sự quan tâm của các tập đoàn và công ty lớn trên thế giới, đặc biệt là các công ty của Hoa Kỳ với sự hiện diện của các “tên tuổi” như IBM, Qualcomm, Coca-Cola…

Giờ đây, với các thỏa thuận thương mại thế hệ mới vừa hoàn thành như Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định thương mại tự do Việt Nam-EU (EVFTA), kinh tế Việt Nam được dự báo sẽ những bước tăng trưởng mạnh mẽ. Đây cũng được kỳ vọng sẽ tạo ra xung lực mạnh mẽ thúc đẩy quan hệ hợp tác kinh tế-thương mại-đầu tư song phương giữa hai nước trong thời gian tới, đặc biệt là trong các lĩnh vực về chuyển đổi số, công nghệ cao.

Thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ:

Quá trình thay đổi về chất

Xuân Quảng

Tháng 7/1995, Việt Nam và Hoa Kỳ thiết lập quan hệ ngoại giao, cánh cửa giao thương và hợp tác kinh tế giữa hai quốc gia chính thức mở ra.

Ông Bùi Huy Sơn, Tham tán Công sứ Thương mại, Trưởng Cơ quan Thương vụ Việt Nam tại Hoa Kỳ nhấn mạnh, “quan hệ Việt Nam-Hoa Kỳ trong 25 năm qua  đã có những bước tiến vượt bậc và trở thành những đối tác đầu tư quan trọng của nhau, theo đó thương mại song phương giữa hai nước đã có những cú nhảy vọt cả ở chiều rộng lẫn chiều sâu.”

Đa dạng cơ cấu hàng hóa xuất khẩu

Ngay trong giai đoạn đầu tiên 1995-2000, sau 5 năm thiết lập quan hệ ngoại giao, kim ngạch thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ đã tăng nhanh chóng hơn 2 lần, từ con số 450 triệu USD lên 1,09 tỷ USD.

Điểm nhấn quan trọng tiếp theo, ngày 13/7/2000 tại Washington, Hiệp định thương mại Việt- Mỹ (BTA) đã được ký kết và có hiệu lực từ ngày 10/12/2001. Điều này ngay lập tức tạo ra những động lực mới cho việc hợp tác kinh tế giữa hai quốc gia.

“Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, nên những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam đều xuất hiện tại thị trường này với số lượng lớn và chủng loại phong phú,”

Ông Bùi Huy Sơn nhớ lại từ khi Hiệp định thương mại song phương được ký kết, cơ cấu hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam đã thay đổi đáng kể. Ngoài những nhóm hàng xuất khẩu như dệt may, da giày đã khẳng định vị thế thì nhóm hàng nông-thủy-hải sản cũng dần ghi vào danh mục các nhóm hàng xuất khẩu quan trọng và mới đây nhất là những mặt hàng mới như linh kiện điện tử, đồ gỗ.

Con số thống kê cho thấy năm 2019 vừa qua, 5 nhóm hàng xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam sang Hoa Kỳ, ngoài dệt may (24%), giày dép (11%) đã có thêm mặt hàng điện thoại và linh kiện (15%), máy tính và sản phẩm điện tử (10%), đồ gỗ (9%).

Thương mại song phương Việt Nam-Hoa Kỳ đã có những cú nhảy vọt cả ở chiều rộng lẫn chiều sâu. (Ảnh minh họa/TTXVN)
Thương mại song phương Việt Nam-Hoa Kỳ đã có những cú nhảy vọt cả ở chiều rộng lẫn chiều sâu. (Ảnh minh họa/TTXVN)

“Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, nên những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam đều xuất hiện tại thị trường này với số lượng lớn và chủng loại phong phú,” ông Sơn nói.

Ông Sơn lạc quan nhìn nhận: Cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ đã thay đổi theo hướng tăng dần nhóm hàng chế biến, chế tạo đồng thời từng bước nâng cao giá trị gia tăng.

“Hiện Việt Nam có tới 10 nhóm hàng xuất khẩu có giá trị trên 1 tỷ USD vào Hoa Kỳ; trong đó có các nhóm hàng xuất khẩu giá trị lớn như dệt may (14,8 tỷ USD), điện thoại và linh kiện (8,8 tỷ USD), giày dép (6,6 tỷ USD), đồ gỗ (5,3 tỷ USD),” ông Sơn nói.

Dưới góc độ phát triển thị trường, ông Nguyễn Hồng Dương-Phó Vụ trưởng Vụ thị trường Âu-Mỹ (Bộ Công Thương), cho biết nếu 20 năm trước, Việt Nam chỉ xuất khẩu khoảng 60 nhóm hàng sang thị trường Mỹ thì đến năm 2019, con số này đã tăng lên 90 nhóm hàng .

Trong hai thập kỷ qua, thương mại song phương đã tăng trưởng đáng kinh ngạc ở mức 7.000%. (Ảnh minh họa/TTXVN)
Trong hai thập kỷ qua, thương mại song phương đã tăng trưởng đáng kinh ngạc ở mức 7.000%. (Ảnh minh họa/TTXVN)

Dệt may và da giày khẳng định tên tuổi “made in Vietnam”

Có thể khẳng định, trong quan hệ xuất nhập khẩu hai nước thì dệt may và da giày là hai mặt hàng chủ lực và đã có bước trưởng nhảy vọt cả về chất và lượng qua các năm.

Kể từ khi “đổi mới,” ngành dệt may và da giày trở thành một trong những động lực tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam, đóng góp vai trò quan trọng trong định hướng xuất khẩu. Trong khi đó, Hoa Kỳ là thị trường hàng đầu thế giới tiêu thụ sản phẩm dệt may và da giày của Việt Nam.

Theo số liệu ước tính từ ngành công thương, năm 2019, xuất khẩu dệt may của Việt Nam sang Hoa Kỳ đạt gần 15 tỷ USD, chiếm 45% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước.

Nhu cầu tiêu dùng sụt giảm trong giai đoạn dịch COVID-19 song xuất khẩu giày dép 5 tháng đầu năm 2020 sang Mỹ vẫn đạt trên 2,43 tỷ USD, chiếm 36,3% trong tổng kim ngạch xuất khẩu giày dép của cả nước.

Đặc biệt, trong những tháng vừa qua khi dịch COVID-19 “hoành hành” với diễn biến phức tạp diễn ra trên phạm vi toàn cầu thì hàng dệt may của Việt Nam xuất sang Hoa Kỳ vẫn đứng đầu về kim ngạch và đạt 4,84 tỷ USD.

Ông Cao Hữu Hiếu, Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn Dệt may Việt Nam (Vinatex), cho biết để nâng tầm thương hiệu thời trang trong nước, một số doanh nghiệp của Việt Nam như May 10 đã bắt đầu mang thương hiệu sơ mi ra nước ngoài, bán trên các trang như Amazon hay phân phối trong các hệ thống siêu thị lớn của Mỹ…

“Trong thời gian tới, Vinatex khuyến khích các doanh nghiệp đưa thương hiệu của mình vào hệ thống các siêu thị phân phối lớn cũng như từng bước đưa thương hiệu của mình thâm nhập các thị trường này. Chẳng hạn như một số doanh nghiệp may mặc của Vinatex đang nghiên cứu đưa hàng vào hệ thống siêu thị Walmart…. để từng bước xây dựng thương hiệu, trực tiếp phân phối đến người tiêu dùng nước ngoài,” ông Cao Hữu Hiếu chia sẻ thêm.

Cùng với dệt may, giày dép là một trong những ngành hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam sang thị trường này. Năm 2019, Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất với kim ngạch đạt 6,65 tỷ USD, tăng 14,2% so với năm 2018.

Đại diện Hiệp hội Da-Giày-Tú xách Việt Nam (LEFASO), cho hay dù nhu cầu tiêu dùng sụt giảm trong giai đoạn dịch COVID-19 song xuất khẩu giày dép 5 tháng đầu năm 2020 sang Mỹ vẫn đạt trên 2,43 tỷ USD, chiếm 36,3% trong tổng kim ngạch xuất khẩu giày dép của cả nước. Điều này cho thấy các mặt hàng mang thương hiệu Việt vẫn được người tiêu dùng  Mỹ tin tưởng và đánh giá cao.

Rõ rệt nhất là từ ngày 28/ 5 đến 30/5,  60 nhà nhập khẩu giày dép Hoa Kỳ đã giao thương trực tuyến với doanh nghiệp Việt Nam nhằm cập nhật tình hình thị trường giày dép Hoa Kỳ trong bối cảnh dịch COVID-19 và đánh giá triển vọng thời gian tới cũng như cách thích ứng trong bối cảnh mới đồng thời tạo cơ hội giới thiệu, kết nối doanh nghiệp Việt Nam và Hoa Kỳ trong lĩnh vực giày dép.

Công ty Cổ phần May mặc Bình Dương, thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương  chuyên may các sản phẩm áo sơ mi, quần jeans, quần âu xuất khẩu sang thị  trường Hoa Kỳ. (Ảnh: Trần Việt/TTXVN)
Công ty Cổ phần May mặc Bình Dương, thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương chuyên may các sản phẩm áo sơ mi, quần jeans, quần âu xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ. (Ảnh: Trần Việt/TTXVN)

“Hiện nhiều doanh nghiệp trong nước đã tạo ra được những bộ sưu tập và những bộ thiết kế để chào tới các khách hàng, giảm dần sự phụ thuộc vào các mẫu thiết kế của khách hàng như trước đây. Việc này ngày càng khẳng định bước tiến của các doanh nghiệp và thương hiệu Việt trong việc xuất khẩu ra nước ngoài,” bà Phan Thị Thanh Xuân, Phó Chỉ tịch kiêm Tổng thư ký Hiệp hội da giày Việt Nam chia sẻ.

Ở chiều ngược lại, theo số liệu từ Tổng cục Hải quan, riêng trong 4 tháng đầu năm 2020, tổng kim ngạch hai chiều Việt Nam-Hoa Kỳ đạt 24,9 tỷ USD, trong đó nhập khẩu 4,76 tỷ USD và xuất khẩu 20,16 tỷ USD. Các mặt hàng nhập khẩu chính từ Hoa Kỳ là máy móc, thiết bị, nguyên, phụ liệu phục vụ sản xuất và gần đây là nhóm hàng nông sản, hoa quả, thịt, sản phẩm thịt cũng được nhập khẩu nhiều hơn.

Khẳng định tầm quan trọng trong mối quan hệ đối tác Việt Nam-Hoa Kỳ,  nhân dịp kỷ niệm 25 thiết lập quan hệ ngoại giao hai nước, Ngoại trưởng Mỹ Mike Pompeo đã truyền đi thông điệp:  Trong hai thập kỷ qua, thương mại song phương đã tăng trưởng đáng kinh ngạc ở mức 7.000%. Việt Nam hiện là một trong những nền kinh tế phát triển nhanh nhất ở Đông Nam Á, giúp hàng triệu người thoát nghèo…

“Các công ty Mỹ đang tích cực hỗ trợ bằng cách đầu tư hàng tỷ đô la vào Việt Nam. Tôi đã chứng kiến tận mắt điều này khi đến thăm Việt Nam và nghe các nhà lãnh đạo doanh nghiệp Mỹ và Việt Nam chia sẻ về các dự án hợp tác đang diễn ra… Trong những năm tới, Hoa Kỳ và Việt Nam phải tập trung vào tương lai và củng cố hợp tác trong các lĩnh vực từ an ninh mạng đến giáo dục, năng lượng và quốc phòng. Nhân dịp kỷ niệm 25 năm quan hệ đối tác của chúng ta vào năm 2020, chúng tôi tái khẳng định cam kết ủng hộ một Việt Nam vững mạnh và độc lập cũng như một khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương hòa bình và thịnh vượng” ông Mike Pompeo phát biểu./.

Việt Nam:

Thị trường đầy tiềm năng của các nhà đầu tư Mỹ

Hạnh Nguyễn

Đến bây giờ, vị Tổng giám đốc IBM Việt Nam Tan Jee Toon Việt Nam: vẫn nhớ như in lần đầu tiên khi ông đặt chân đến Việt Nam trong nhiệm kỳ đầy thách thức cách đây 7 năm (2013-2015). Khi đó đang là giai đoạn cuối của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu và nền kinh tế vĩ mô của Việt Nam có các mức điểm thấp nhất trên đồ thị.

Tuy nhiên, những ngày tháng khó khăn đó đã trở thành kỷ niệm không thể nào quên với vị giám đốc quốc gia của một trong những tập đoàn công nghệ hàng đầu thế giới. Và tình yêu, sự gắn bó đã đưa ông Jee Toon trở lại Việt Nam với nhiệm kỳ mới, kể từ cuối năm 2018.

“Khi quay trở lại, tôi đã chứng kiến những sự chuyển biến to lớn của cả nền kinh tế Việt Nam chỉ trong một thời gian rất ngắn,” ông Tan Jee Toon xúc động nói.

Đây cũng là cảm nhận chung của nhiều lãnh đạo các doanh nghiệp lớn của Hoa Kỳ khi đã có “thâm niên” làm việc tại Việt Nam.

Kích hoạt các sáng kiến công nghệ số

Đánh giá tiềm năng kinh doanh tại Việt Nam trong bối cảnh mới, vị Tổng giám đốc IBM Việt Nam nhấn mạnh: “Dễ nhận thấy nhất là sự bùng nổ của ngành bán lẻ và bất động sản. Tiêu chuẩn sống của người dân cũng được cải thiện đáng kể, các ngành công nghiệp bắt đầu đầu tư cho tự động hóa, số hóa và chuyển đổi kỹ thuật số. Các lĩnh vực mũi nhọn như ngân hàng, sản xuất bắt đầu kích hoạt các sáng kiến hỗ trợ chuyển đổi công nghệ thông tin.”

 Ông Tan Jee Toon, Tổng giám đốc IBM Việt Nam
Ông Tan Jee Toon, Tổng giám đốc IBM Việt Nam

Theo ông Tan Jee Toon, sự gia tăng của các dịch vụ tư vấn chuyển đổi số toàn diện cho thấy nhu cầu của doanh nghiệp nội địa trong kế hoạch phát triển dài hạn. Bên cạnh đó, làn sóng người Việt Nam sống ở nước ngoài trở về quê hương đã góp phần nâng cao nền tảng kỹ năng công nghệ cũng như đầu tư kinh doanh và đây là một phần của hệ sinh thái.

“Điều chúng ta đều có thể nhận thấy là các doanh nghiệp Việt Nam hiện đang tích cực khai thác chuyên môn công nghệ cao từ bên ngoài đồng thời tăng tốc các kỹ năng của nguồn lực trong nước hơn bao giờ hết. Theo tôi, đó đều là những tín hiệu tích cực cho nền kinh tế,” ông Tan Jee Toon nói.

Là một trong những nhà đầu tư nước ngoài đầu tiên trở lại Việt Nam từ năm 1994, trải qua hơn 25 năm chứng kiến nhiều biến động từ môi trường, kinh tế và xã hội, đến nay Coca-Cola ngoài việc trở thành một biểu tượng về văn hóa ẩm thực của nước Mỹ thì họ còn được biết tới với nhiều đóng góp tích cực, lan tỏa các giá trị tốt đẹp thông qua những hành động cụ thể, thiết thực trong cộng đồng và xã hội ở đất nước hình chữ S.

“Khi quay trở lại, tôi đã chứng kiến những sự chuyển biến to lớn của cả nền kinh tế Việt Nam chỉ trong một thời gian rất ngắn,”

Thời gian qua, do ảnh hưởng của dịch COVID-19, nhiều doanh nghiệp trong đó có Coca-Cola đã phải đối mặt với rất nhiều khó khăn. Tuy nhiên, bà Lê Từ Cẩm Ly- Giám đốc Đối ngoại, Truyền thông và Phát triển Bền vững Coca-Cola Đông Dương vẫn đánh giá cao tiềm năng kinh doanh tại Việt Nam với môi trường vĩ mô ổn định, dân số trẻ, năng động và ham học hỏi.

“Việt Nam là thị trường tiềm năng với nhiều doanh nghiệp đầu tư nước ngoài. Trong những năm qua, Việt Nam đã thu hút vốn đầu tư quốc tế mạnh mẽ trong bối cảnh nền kinh tế trong nước duy trì đà tăng trưởng khả quan. Là một nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, Coca-Cola đánh giá cao sự hỗ trợ của Chính phủ Việt Nam kể từ ngày đầu hoạt động. Các chính sách thu hút đầu tư và cải thiện môi trường kinh doanh đã cho phép chúng tôi tiếp tục sứ mệnh hướng tới tăng trưởng bền vững và mang lại nhiều sản phẩm có chất lượng dành cho người tiêu dùng, cũng như thực hiện các hoạt động cộng đồng,” bà Ly nhấn mạnh.

Coca-Cola đóng góp tích cực các giá trị tốt đẹp thông qua các hành động cụ thể, thiết thực trong cộng đồng và xã hội ở đất nước hình chữ S. (Ảnh: PV/Vietnam+)
Coca-Cola đóng góp tích cực các giá trị tốt đẹp thông qua các hành động cụ thể, thiết thực trong cộng đồng và xã hội ở đất nước hình chữ S. (Ảnh: PV/Vietnam+)

Việt Nam sẽ trở thành trung tâm R&D

Với ông Thiều Phương Nam-Tổng giám đốc Qualcomm Việt Nam và Lào, Campuchia thì Việt Nam là điểm đến hấp dẫn cho đầu tư vì có môi trường rất thuận lợi.

Ông chỉ ra với vị trí chiến lược, sự ổn định vĩ mô và chất lượng sống cùng với nguồn lực mạnh mẽ, Việt Nam đang thu hút sự quan tâm của các tập đoàn, công ty lớn trên thế giới, trong đó có các công ty của Hoa kỳ. Với các thỏa thuận thương mại thế hệ mới vừa hoàn thành như Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định thương mại tự do Việt Nam-EU (EVFTA), kinh tế Việt nam được dự báo là sẽ tăng trưởng mạnh mẽ hơn trong thời gian tới.

Việt Nam không chỉ là trung tâm sản xuất lớn của thế giới mà còn là trung tâm nghiên cứu và phát triển (R&D)

Riêng trong lĩnh vực công nghệ cao, ông Nam cho rằng Việt Nam không chỉ là trung tâm sản xuất lớn của thế giới mà còn là trung tâm nghiên cứu và phát triển (R&D) với sự đầu tư mạnh mẽ của các công ty trong nước và quốc tế trong nhiều lĩnh vực công nghệ quan trọng như 5G, AI, IoT và Smart city… Hiện nay, các sản phẩm công nghệ cao được thiết kế và sản xuất tại Việt Nam đang được xuất khẩu và sử dụng trên toàn thế giới.

Ông Thiều Phương Nam-Tổng giám đốc Qualcomm Việt Nam và Lào, Campuchia.
Ông Thiều Phương Nam-Tổng giám đốc Qualcomm Việt Nam và Lào, Campuchia.

“Với sự hỗ trợ manh mẽ của Chính phủ thông quan các chương trình như “make in Vietnam” và Công nghiệp 4.0 cũng như quyến tâm triển khai 5G trong năm 2020, môi trường đầu tư nói chung và ngành công nghệ cao nói riêng được kỳ vọng sẽ tiếp tục phát triển mạnh mẽ,” ông Nam nhận định.

Trong bối cảnh đó, ông Nam cho biết mới đây Qualcomm đã ra mắt trung tâm R&D tại Hà Nội và là trung tâm R&D đầu tiên của Qualcomm ở Đông Nam Á nhằm hỗ trợ mạnh mẽ hơn nữa chiến lược “make in Vietnam” cũng như các công ty công nghệ nội địa như VinSmart, BKAV, Viettel và VNPT tiếp cận các công nghệ mới, với quy trình kiểm định sản phẩm theo tiêu chuẩn cao nhất để cung cấp không những cho thị trường trong nước mà còn cho các thị trường quốc tế.

Dẫn đầu thúc đẩy chuỗi cung ứng và thương mại

Ở góc độ khái quát, ông Tan Jee Toon cho rằng với Quyết định số 7449/QĐ-TTg vừa được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt về Chương trình chuyển đổi kỹ thuật số quốc gia vào năm 2025 với định hướng đến năm 2030, Việt Nam sẽ chứng kiến một sự chuyển đổi số mạnh mẽ của các doanh nghiệp nội địa trong tương lai gần.

“Chính phủ Việt Nam đã nhanh chóng tăng cường hợp tác mạnh mẽ với khu vực tư nhân khi bắt đầu phát triển và thực hiện chính sách Công nghiệp 4.0 toàn diện. Thời gian qua, IBM đã phối hợp với các đối tác như Phòng thương mại Mỹ (Amcham) và Hội đồng doanh nghiệp Mỹ-ASEAN đóng góp các quan điểm và ý kiến cho chiến lược dài hạn này của Chính phủ. Theo đó, Chính phủ cam kết chính sách này được tập trung và có thể được thực hiện bởi các công ty thuộc mọi quy mô trong các ngành công nghiệp. Chiến lược này cũng phù hợp với kế hoạch thúc đẩy thương mại đầy triển vọng của nền kinh tế Việt Nam,” ông Tan Jee Toon nói.

Đánh giá khách quan, ông Tan Jee Toon cho rằng Việt Nam đang dẫn đầu trong việc thúc đẩy hội nhập chuỗi cung ứng và thương mại trên khắp châu Á-Thái Bình Dương. Hiện Việt Nam giữ vị trí thành viên hàng đầu của CPTPP và là tiếng nói mạnh mẽ trong khối ASEAN để thúc đẩy hội nhập thương mại hơn nữa.

“Điều này bao gồm các hoạt động thúc đẩy hội nhập thương mại kỹ thuật số giữa các thành viên ASEAN, bằng cách khuyến khích tăng cường chia sẻ các nguồn dữ liệu xuyên biên giới một cách an toàn và bảo mật, điều cần thiết cho nền kinh tế toàn cầu thế kỷ 21,” ông Tan Jee Toon mạnh./.

Qualcomm ra mắt trung tâm R&D tại Hà Nội. (Ảnh: PV/Vietnam+)
Qualcomm ra mắt trung tâm R&D tại Hà Nội. (Ảnh: PV/Vietnam+)

Người lao động:

cần thích ứng với các doanh nghiệp ‘thông minh’

Hạnh Nguyễn

Trong bối cảnh hội nhập sâu rộng, Việt Nam đang trở thành điểm thu hút các dòng vốn đầu tư nước ngoài (FDI) thế hệ mới, trong đó có các nhà đầu tư đến từ Hoa Kỳ. Nền kinh tế trở nên cạnh tranh sẽ tạo động lực thúc đẩy các thị trường, đặc biệt là thị trường lao động với những thay đổi nhanh chóng.

Kết hợp giữa công nghệ và lao động

Báo cáo về xu hướng lực lượng lao động tại 20 nền kinh tế trong Diễn đàn kinh tế thế giới 2019 chỉ ra hơn 42% tổng số công việc sẽ thay đổi đáng kể vào năm 2022, bao gồm những yêu cầu về các kỹ năng mới như phân tích hoặc tư duy thiết kế, và kỹ năng mềm như giải quyết vấn đề phức tạp.

Các doanh nghiệp sẽ không còn lựa chọn nào khác ngoài việc đổi mới trong phương thức tổ chức và hoạt động, để trở thành các doanh nghiệp “thông minh”

Bà Lê Từ Cẩm Ly, Giám đốc Đối ngoại, Truyền thông và Phát triển Bền vững Coca-Cola Đông Dương, chia sẻ các doanh nghiệp sẽ không còn lựa chọn nào khác ngoài việc đổi mới trong phương thức tổ chức và hoạt động, để trở thành các doanh nghiệp “thông minh”.

Theo bà Ly, để chuẩn bị cho những sự chuyển dịch mạnh mẽ này, người lao động cần trang bị cho mình khả năng thích ứng và học hỏi. Bên cạnh đó, các kỹ năng công nghệ, số hóa cũng là những lĩnh vực mà người lao động cần tập trung trau dồi.

“Coca-Cola đề cao văn hóa trao quyền và sự gắn kết, theo đó người lao được khuyến khích chủ động vạch ra con đường mà họ muốn phát triển. Chúng tôi chấp nhận để họ mắc sai lầm, học và trưởng thành từ những sai lầm đó. Công ty không giới hạn tài năng của nhân viên,” bà Ly nói.

Các bạn trẻ tham gia cuộc thi Hùng biện về môi trường do Greenhub và Coca-Cola tổ chức. (Ảnh: PV/Vietnam+)
Các bạn trẻ tham gia cuộc thi Hùng biện về môi trường do Greenhub và Coca-Cola tổ chức. (Ảnh: PV/Vietnam+)

Không nhất thiết phải có bằng cử nhân đại học

Tổng giám đốc IBM Việt Nam, ông Tan Jee Toon chia sẻ cần phải có sự kết hợp giữa công nghệ và nguồn lao động để đưa quá trình chuyển đổi số của quốc gia đến thành công. Một trong những rào cản chính làm chậm quá trình chuyển đổi kỹ thuật số ở Việt Nam là khả năng chuyên môn sâu và cần thiết của người lao động, những kỹ năng mới để nắm bắt những yêu cầu công nghệ, nơi máy móc và con người có thể làm việc cùng nhau.

Để giải quyết vấn đề trên, ông Tan Jee Toon cho rằng các đối tác khu vực công và tư nhân cần phải cùng nhau cung cấp cho sinh viên các cơ hội và kỹ năng học tập, rèn luyện kỹ thuật và chuyên môn, như tư duy phản biện, giải quyết vấn đề, giao tiếp và hợp tác… để cạnh tranh trong nền kinh tế kỹ thuật số.

“Sự tham gia của khối doanh nghiệp tư nhân sẽ thúc đẩy cơ hội tham gia vào việc học đi đôi với hành theo cách lâu dài, có ý nghĩa, phát triển tài năng của lực lượng lao động mới. Bối cảnh mới, một loạt các yêu cầu công việc đang gia tăng, đặc biệt trong các lĩnh vực như điện toán đám mây, an ninh mạng và thiết kế kỹ thuật số. Điều này đòi hỏi nhiều hơn bằng tốt nghiệp trung học song không nhất thiết phải có bằng cử nhân đại học,” ông Tan Jee Toon nói.

Sự tham gia của khối doanh nghiệp tư nhân sẽ thúc đẩy cơ hội tham gia vào việc học đi đôi với hành theo cách lâu dài, có ý nghĩa, phát triển tài năng của lực lượng lao động mới.

Bên cạnh đó, ông Thiều Phương Nam-Tổng giám đốc Qualcomm Việt Nam và Lào, Campuchia khuyến cáo ngoài các kiến thức chuyên môn, các bạn trẻ cần chuẩn bị và hoàn thiện các kỹ năng mềm, như ngoại ngữ, kỹ năng làm việc trong môi trường đa quốc gia, đa văn hóa, khả năng làm việc nhóm và tự học.

“Các công ty cũng có các chương trình huấn luyện nội bộ nên các bạn trẻ cũng có thể tích lũy kinh nghiệm theo thời gian,” ông Nam chia sẻ.

Đồng tình với quan điểm trên, bà Ly cho hay: “Tại Coca-Cola, điều quan trọng hơn cả chính là tinh thần và sự cam kết của các thành viên. Đây chính là chất kết dính và là nguồn năng lượng vô tận tiếp lửa cho bất cứ ai khi làm việc trong công ty.”

Cam kết trách nhiệm chuyển giao công nghệ

Khi được phỏng vấn về chiến lược kinh doanh trong thời gian tới, các nhà quản lý doanh nghiệp đến từ Hoa Kỳ cho biết họ cam kết đẩy mạnh công nghệ song song với việc có trách nhiệm với môi trường, cộng đồng và xã hội.

Ông Nam chia sẻ chiến lược của Qualcomm tại Việt Nam là tập trung vào hỗ trợ, chuyển giao công nghệ để giúp các công ty Việt Nam có thể thiết kế và sản xuất các sản phẩm, trong đó có các sản phẩm 5G với công nghệ và chất lượng cao nhất nhằm cung cấp không chỉ cho thị trường trong nước mà còn ra các thị trường khác trên thế giới.

Cần có sự kết hợp giữa công nghệ và nguồn lao động để đưa quá trình chuyển đổi số của quốc gia đến thành công. (Ảnh: PV/Vietnam+)
Cần có sự kết hợp giữa công nghệ và nguồn lao động để đưa quá trình chuyển đổi số của quốc gia đến thành công. (Ảnh: PV/Vietnam+)

Tại Trung tâm nghiên cứu và phát triển (R&D) của Qualcomm, các phòng radio tần số (Labs RF), camera, hỗ trợ tương thích (Interoperatility) và năng lượng, hiệu suất và nhiệt (Labs PPT-Power, Performane, Thermal) sẽ giúp các công ty trong nước nhận được sự hỗ trợ của Qualcomm ngay tại Việt Nam mà không khải gửi sản phẩm ra thế giới. Như vậy, các doanh nghiệp sẽ tiết kiệm nhiều thời gian và chi phí, đặc biệt là cho các sản phẩm xuất khẩu ra các thị trường nước ngoài.

Ông Nam cho biết thêm một trong các trọng tâm khác của Qualcomm là hỗ trợ Việt Nam triển khai thành công 5G từ chính sách băng tần, xây dựng chiến lược cho thiết kế hạ tầng mạng lưới đến việc thiết kế các sản phẩm đầu cuối.

Một trong các trọng tâm khác của Qualcomm là hỗ trợ Việt Nam triển khai thành công 5G. (Ảnh: PV/Vietnam+)
Một trong các trọng tâm khác của Qualcomm là hỗ trợ Việt Nam triển khai thành công 5G. (Ảnh: PV/Vietnam+)

“Công nghệ 5G dự báo sẽ tạo ra giá trị 1.000 tỷ USD trong 2 năm tới và 13.200 tỷ USD đến năm 2035 trên toàn cầu và đây sẽ là một cơ hội lớn cho Việt Nam. Bên cạnh đó, 5G cũng sẽ là hạ tầng công nghệ quan trọng cho chiến lược Công nghiệp 4.0 của Chính phủ và là nền tảng thúc đẩy đổi mới sáng tạo tại Việt Nam,” ông  Nam nói.

Trong khi đó, ông Tan Jee Toon cho biết IBM cam kết là đối tác đồng hành cùng công cuộc chuyển đổi kỹ thuật số của Việt Nam bằng cách đưa các công nghệ tiên tiến nhất vào phân tích dữ liệu và cung cấp những giải pháp hữu ích cho các doanh nghiệp trong các ngành chăm sóc sức khỏe, sản xuất, bán lẻ, nông nghiệp, hàng không, tài chính, ngân hàng và kinh doanh.

“Tôi cho rằng những thử nghiệm về trí tuệ nhân tạo cũng như chuyển khối lượng công việc đơn giản lên đám mây có thể coi là Chương 1 của quá trình chuyển đổi số. Song, sự phát triển vũ bão của công nghệ cộng thêm những tác động từ đại dịch COVID-19 thực sự là một cú hích lớn, để mọi ngành công nghiệp đều phải nhận ra rằng chúng ta cần nhanh chóng chuyển sang Chương 2 của chuyển đổi số. Theo đó, các tổ chức và doanh nghiệp cần phải chuyển từ thử nghiệm sang chuyển đổi thực sự, đạt được tốc độ và quy mô để nắm lấy cơ hội kinh doanh và gia tăng khả năng cạnh tranh của mình,” ông Tan Jee Toon nói.

Mặc dù ảnh hưởng rất lớn từ đại dịch COVID-19, song bà Ly khẳng định Coca-cola cam kết tiếp tục theo đuổi chiến lược kinh doanh dài hạn trở thành công ty nước giải khát toàn diện. “Bên cạnh đó, chúng tôi cũng sẽ tiếp tục ưu tiên các mục tiêu phát triển bền vững xoay quanh bốn yếu tố chính, gồm nguồn nước sạch-bảo tồn thiên nhiên, nâng cao năng lực kinh tế cho phụ nữ, chương trình sức khỏe và phúc lợi cộng đồng, quản lý rác thải nhựa và nhựa tái chế,” bà Ly chia sẻ./.

IBM Việt Nam. (Ảnh: PV/Vietnam+)
IBM Việt Nam. (Ảnh: PV/Vietnam+)

Việt Nam-Hoa Kỳ:

Xây dựng mối quan hệ gắn bó và bền chặt

Hạnh Nguyễn

“Năm nay, Việt Nam và Hoa Kỳ kỷ niệm 25 năm thiết lập quan hệ ngoại giao, đánh dấu một sự thay đổi đầy ý nghĩa. Sự tin cậy lẫn nhau đã giúp cho hai nước chúng ta vượt qua những bi kịch trong quá khứ và cùng hướng tới xây dựng một mối quan hệ gắn bó và bền chặt,” ông Adam Sitkoff, Giám đốc điều hành Phòng thương mại Mỹ (AmCham) trả lời phỏng vấn VietnamPlus.

Hai mươi năm sinh sống và làm việc tại Hà Nội, ông Adam Sitkoff  có nhiều tình cảm sâu sắc với Việt Nam và tin tưởng những cơ hội hợp tác đầu tư tại Việt Nam trong tương lai.

Ông đánh giá như thế nào về bước tiến trong quan hệ ngoại giao hai nước?

Ông Adam Sitkoff: Đây là mối quan hệ gắn bó chặt chẽ đa phương diện. Về kinh tế, Hoa Kỳ là đối tác thương mại, nhà đầu tư quan trọng của Việt Nam. Về chính trị, Việt Nam và Hoa Kỳ có cùng quan điểm hướng tới hòa bình và ổn định ở Đông Á cũng như việc giảm thiểu tác động của đại dịch COVID-19-vốn đã làm đảo lộn cuộc sống, đe dọa việc làm của hàng triệu người, phá vỡ hệ thống thương mại toàn cầu, trong đó cả hai quốc gia cùng bị ảnh hưởng.

Hai mươi năm sinh sống và làm việc tại Hà Nội, ông Adam Sitkoff  có nhiều tình cảm sâu sắc với Việt Nam và tin tưởng những cơ hội hợp tác đầu tư tại Việt Nam trong tương lai.

Hiện hai nước có một mối quan hệ bền chặt, gắn bó và tôn trọng lẫn nhau trong nhiều lĩnh vực, bao gồm: An ninh khu vực, giáo dục, y tế toàn cầu, an ninh lương thực và năng lượng, ứng phó thảm họa…

Bên cạnh đó, các liên kết văn hóa cũng có tầm quan trọng lớn, khi mà cộng đồng người Việt sống ở Hoa Kỳ hiện đông nhất so với các nước khác. Có thể nói rằng người Mỹ gốc Việt đã đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển của Việt Nam. Đầu tư của họ, bằng cả tài năng và tinh thần kinh doanh, đã góp phần thúc đẩy kinh tế trong nước tăng trưởng ấn tượng.

ông Adam Sitkoff, Giám đốc điều hành Phòng thương mại Mỹ (AmCham) trả lời phỏng vấn VietnamPlus.
ông Adam Sitkoff, Giám đốc điều hành Phòng thương mại Mỹ (AmCham) trả lời phỏng vấn VietnamPlus.

Nhìn lại, nếu như năm 1995 chỉ có 60.000 người Hoa Kỳ đến thăm Việt Nam thì năm 2019, con số này đã đạt xấp xỉ 700.000 lượt khách. Chúng tôi hy vọng tốc độ tăng trưởng này sẽ đẩy mạnh hơn nữa khi du lịch quốc tế bình thường trở lại sau đại dịch. Bên cạnh đó, Hoa Kỳ cũng đang đón nhận hơn 30.000 sinh viên Việt Nam đến học tập, tiếp thu những kỹ năng và kiến thức cần thiết cho tương lai.

Thương mại song phương hai nước ngày càng phát triển, song vẫn còn rất nhiều tiềm năng. Theo ông, các doanh nghiệp hai nước cần tiếp cận những tiềm năng đó như thế&nb nào và Amcham có kế hoạch gì để kết nối thương mại, đầu tư hai nước trong giai đoạn tới?

Ông Adam Sitkoff: Thương mại là nền tảng của mối quan hệ song phương hai nước. Thời gian qua, chúng ta đã chứng kiến nhiều thay đổi lớn trong sự phát triển của cộng đồng doanh nghiệp Hoa Kỳ tại Việt Nam.

Tôi còn nhớ, ngay sau khi hai nước vừa nối lại quan hệ kinh tế, một nhóm nhỏ người Mỹ tới Việt Nam đầu tư đã lập nên Phòng Thương mại Mỹ (AmCham). Cuộc họp đầu tiên diễn ra tại khách sạn Dragon gần Hồ Tây, Hà Nội vào tháng 4/1994, đây là khoảng thời gian Amazon được thành lập và Justin Bieber bắt đầu sự nghiệp ca hát.

Ngày đó, AmCham đã tổ chức nhiều hoạt động xúc tiến, kết nối cho các thành viên của cộng đồng với các cơ quan chức năng của Chính phủ và địa phương. Theo thời gian, các thành viên AmCham đã ngày càng lớn mạnh và đóng góp đáng kể vào quá trình tái cơ cấu cũng như tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam. Điểm đáng ghi nhận là nhiều thành viên kỳ cựu của Amcham đã trở thành những cầu nối gắn kết bình thường hóa mối quan hệ song phương giữa hai quốc gia chúng ta.

Có thể nói, AmCham-với vai trò là “tiếng nói của doanh nghiệp Hoa Kỳ” tại Việt Nam, đã hỗ trợ tích cực cho sự thành công của các thành viên thông qua việc thúc đẩy cải thiện môi trường kinh doanh lành mạnh, tăng cường quan hệ thương mại song phương hay cung cấp thông tin và tổ chức các sự kiện chất lượng cao.

Các thành viên AmCham đang đại diện hàng tỷ USD vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Các doanh nghiệp này cũng tạo ra hàng chục ngàn việc làm trực tiếp, hàng trăm ngàn công việc gián tiếp. Hiện các doanh nghiệp Hoa Kỳ chiếm một tỷ trọng đáng kể trong kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam cũng như nộp thuế vào ngân sách Nhà nước.

Các doanh nghiệp Hoa Kỳ chiếm một tỷ trọng đáng kể trong kim ngạch xuất  khẩu của Việt Nam cũng như nộp thuế vào ngân sách Nhà nước.(Ảnh minh họa/TTXVN)
Các doanh nghiệp Hoa Kỳ chiếm một tỷ trọng đáng kể trong kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam cũng như nộp thuế vào ngân sách Nhà nước.(Ảnh minh họa/TTXVN)

Thưa ông, đâu là những yếu tố hấp dẫn các nhà đầu tư Hoa Kỳ đến với Việt Nam? Chính phủ và các chính quyền địa phương cần phải làm gì để thu hút được các nhà đầu tư lớn?

Ông Adam Sitkoff: Đại dịch COVID-19 đã khiến của hoạt động kinh doanh của các nhà đầu tư Hoa Kỳ bị chậm lại. Nhưng một thực tế là các công ty và nhà đầu tư của chúng tôi vẫn đang hoạt động trong hầu hết mọi lĩnh vực của nền kinh tế Việt Nam. Xuất khẩu của Hoa Kỳ sang Việt Nam đã tăng hơn bốn lần trong thập kỷ qua và Hoa Kỳ vẫn là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, ngay cả trong thời kỳ đại dịch khủng khiếp này.

Nhiều nhà đầu tư Hoa Kỳ chia sẻ rất lạc quan về triển vọng kinh doanh tại Việt Nam.

Hướng tới tương lai, chúng tôi hy vọng cả hai chính phủ cùng nỗ lực thực thi Hiệp định thương mại tự do song phương. Điều này sẽ giúp cải thiện dòng vốn đầu tư và thương mại, hỗ trợ chuỗi cung ứng bền vững, cải thiện điều kiện kinh doanh, củng cố khu vực tư nhân, đảm bảo phát triển kinh tế và xã hội bền vững cũng như thúc đẩy sự thịnh vượng.

Nhiều nhà đầu tư Hoa Kỳ chia sẻ rất lạc quan về triển vọng kinh doanh tại Việt Nam. Chúng tôi ủng hộ những nỗ lực của Chính phủ nhằm tạo ra một nền kinh tế hiện đại, thu hút đầu tư trong tương lai và việc làm lương cao cho người dân Việt Nam. Để làm được điều này, các thủ tục hành chính phải được kiểm soát và khung pháp lý cần ổn định và có thể dự đoán được. Trên thực tế, nhiều nhà đầu tư vẫn quan ngại về những thay đổi trong chính sách và quy định không phù hợp với thông lệ quốc tế.

Kỷ niệm 25 năm ngày thành lập Hiệp hội thương mại Mỹ (Ảnh: PV/Vietnam+)
Kỷ niệm 25 năm ngày thành lập Hiệp hội thương mại Mỹ (Ảnh: PV/Vietnam+)

Bên cạnh đó, chúng tôi khuyến nghị Chính phủ cần tiếp tục phát triển cơ sở hạ tầng, bảo vệ sở hữu trí tuệ, cải cách giáo dục, đảm bảo chính sách pháp luật và thuế cũng như tăng cường tính minh bạch tại Việt Nam.

Hiện nay, điều cần thiết nhất là ban hành các quy định về kiểm toán và thuế phải rõ ràng, công bằng và nhất quán. Nỗi lo thường trực của các nhà đầu tư Hoa kỳ chính là việc họ vẫn cảm nhận một hệ thống kiểm toán và thuế có phần tùy tiện và không thể đoán trước. Do đó, những tiến bộ trong các lĩnh vực này không chỉ giúp thu hút thêm đầu tư nước ngoài, mà còn hỗ trợ cho tham vọng của Việt Nam trong các lĩnh vực kinh tế có tính cạnh tranh.

Với sự mất cân bằng thương mại ngày càng gia tăng, điều quan trọng đối với các thành viên của Amcham là một sân chơi bình đẳng, đẳng cấp và có thể dự đoán nhằm tạo ra một nền tảng thị trường vững chắc. Điều này không chỉ thu hút đầu tư mới mà còn để duy trì và phát triển các dự án đầu tư đã có. Ngoài ra, chúng tôi cho rằng các chính sách “quota” đối với nhà đầu tư nước ngoài, khung pháp lý còn hạn chế và các thủ tục hành chính rườm rà cần được xem xét cẩn thận và nới lỏng có chọn lọc để khuyến khích tăng đầu tư của Hoa Kỳ vào Việt Nam.

Chúng tôi luôn mong muốn Việt Nam có được nhiều thành công hơn nữa và các nhà đầu tư, dù ở bất kỳ quốc gia nào, cũng đều đánh giá cao các hành động làm tăng năng suất và giảm chi phí, rủi ro khi kinh doanh. Những điều này thực sự giúp ích cho môi trường kinh doanh và cho tất cả các nhà đầu tư. Trên thực tế, việc giảm chi phí và đơn giản hóa điều kiện kinh doanh sẽ mang lại lợi ích cho các doanh nghiệp nội địa nhiều nhất vì hầu hết trong số họ là doanh nghiệp nhỏ.

Là người đã có thời gian gắn bó lâu dài, ông có thể chia sẻ tình cảm và những kinh nghiệm cá nhân trong quá trình làm việc tại Việt Nam?

Ông Adam Sitkoff: Tôi đã sống và làm việc tại Hà Nội gần 20 năm. Tôi thấy có những cơ hội tuyệt vời và tương lai tươi sáng tại đây. Năm nay, đời sống kinh tế-xã hội có nhiều thách thức, khi mà ảnh hưởng của đại dịch COVID-19 đối với nền kinh tế Việt Nam là nghiêm trọng và sẽ còn tiếp tục tác động tiêu cực trong một thời gian khá dài. Cụ thể, hàng triệu việc làm đã biến mất, nhiều người đã bị giảm mức lương và hoạt động kinh doanh trong hầu hết các lĩnh vực đã chậm lại. Bên cạnh đó, số người nhận trợ cấp thất nghiệp trong nửa đầu năm đã tăng 32% so với cùng kỳ năm ngoái đồng thời tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong quý hai đã giảm xuống mức thấp nhất kể từ khi Chính phủ bắt đầu công bố dữ liệu kinh tế vào năm 1991. Và ngay cả khi nền kinh tế bắt đầu phục hồi, áp lực tài chính đối với nhiều công ty vẫn là một sức ép không nhỏ.

Mặc dù tương lai là không thể định đoán, song người dân Việt Nam đã ngăn chặn sự lây lan của dịch bệnh một cách xuất sắc. Thành công này cho phép đất nước khởi đầu nhanh chóng trên con đường phục hồi kinh tế. Theo tôi, những phản ứng hiệu quả của Chính phủ đối với đại dịch sẽ tiếp tục thúc đẩy vị thế Việt Nam trở thành một thị trường hấp dẫn trong tương lai. Song hành cùng quá trình hồi phục kinh tế, AmCham sẽ tiếp tục nỗ lực hỗ trợ Chính phủ Việt Nam hạ thấp các rào cản thương mại, cải thiện các điều kiện kinh doanh và tạo ra một môi trường tiêu chuẩn, minh bạch, ổn định, đảm bảo tất cả các nhà đầu tư có quyền bình đẳng khi tiếp cận các cơ hội đầu tư và làm ăn tại đây./.

Sản xuất ôtô tại nhà máy của Công ty Ford Việt Nam (liên doanh giữa Tập  đoàn ôtô Ford của Hoa Kỳ và Công ty Diesel Sông Công). (Ảnh: Trần  Việt/TTXVN)
Sản xuất ôtô tại nhà máy của Công ty Ford Việt Nam (liên doanh giữa Tập đoàn ôtô Ford của Hoa Kỳ và Công ty Diesel Sông Công). (Ảnh: Trần Việt/TTXVN)