Ứng phó với biến đổi khí hậu: Cuộc chiến dai dẳng không tiếng súng

Lời tòa soạn

Đồng bằng sông Cửu Long là khu vực có tiềm năng, lợi thế rất lớn, có vai trò, vị trí đặc biệt quan trọng trong phát triển đất nước, không chỉ là “trụ đỡ” bảo đảm an toàn, an ninh lương thực, xuất khẩu nông sản, mà còn là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế của cả nước, đạt được nhiều thành tựu trong phát triển kinh tế-xã hội.

Tuy nhiên, GDP bình quân đầu người của vùng Vựa lúa số 1 Việt Nam này vẫn thấp hơn 18% so với mức trung bình của cả nước. Một trong những lý do ảnh hưởng trực tiếp tới GDP của vùng là do trong nhiều năm qua, nơi đây liên tiếp phải đối mặt với nhiều thách thức do tác động của biến đối khí hậu, triều cường, hạn mặn, các hoạt động xây dựng thủy điện ở thượng nguồn sông Mekong…

Trong vòng 10 năm qua (từ năm 2009 – 2019) đã có hơn 1 triệu người dân miền Tây di cư đến Thành phố Hồ Chí Minh, Đông Nam Bộ và một số vùng miền khác. Số dân di cư trên được đánh giá là lớn hơn dân số của một số tỉnh trong vùng và tương đương với số tăng dân số tự nhiên của cả vùng.

Minh chứng rõ thấy là trong 5 năm gần đây, Đồng bằng sông Cửu Long đã phải hứng chịu 2 đợt xâm nhập mặn lịch sử vào mùa khô năm 2015-2016 và 2019-2020, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất và đời sống dân sinh; khiến hàng chục nghìn hécta lúa, cây ăn trái bị thiệt hại; gần 100.000 hộ dân gặp khó khăn về nước sinh hoạt và gây sụt lún nghiêm trọng tại nhiều tuyến đê, đường giao thông…

Những thách thức nghiêm trọng từ môi trường đã tạo nên làn sóng di cư lớn để tìm kiếm cơ hội mưu sinh thay thế. Trong vòng 10 năm qua (từ năm 2009 – 2019) đã có hơn 1 triệu người dân miền Tây di cư đến Thành phố Hồ Chí Minh, Đông Nam Bộ và một số vùng miền khác. Số dân di cư trên được đánh giá là lớn hơn dân số của một số tỉnh trong vùng và tương đương với số tăng dân số tự nhiên của cả vùng.

Phần lớn những người di cư này là tự phát, như một phương thức chiến đấu với biến đổi khí hậu của người dân nơi đây. Những người còn ở lại, tiếp tục chống chọi khi thì với lũ, lúc hạn mặn, lúc lại xói lở đất… Tuy nhiên, trong cuộc chiến dai dẳng không tiếng súng này, những người dân vùng Đồng bằng sông Cửu Long không đơn độc. Tổng vốn đầu tư cho Đồng bằng sông Cửu Long so với cả nước tăng từ 12,2% (giai đoạn 2011-2015) lên 16,53% (2016-2020); các chương trình cải thiện hệ thống mùa vụ ứng phó với biến đổi khí hậu, chương trình tái định cư, xây nhà chống lũ… được triển khai ở tất cả các địa phương trong vùng như một cách tiếp sức của Đảng và Nhà nước cho người dân Đồng bằng sông Cửu Long trong cuộc chiến với biến đổi khí hậu.

Báo Điện tử VietnamPlus xin giới thiệu loạt bài “Thích ứng với biến đổi khí hậu ở Đồng bằng sông Cửu Long: Cuộc chiến dai dẳng không tiếng súng” phác họa phần nào những khó khăn, nỗ lực của người dân, Đảng và Chính phủ trong cuộc chiến chống lại mối đe dọa của toàn cầu.

Hạn mặn ở Đồng bằng sông Cửu Long

KHI SẦU RIÊNG THÀNH SẦU CHUNG

Phạm An

Ông Tư Văn khập khiễng bước ra hiên căn nhà loang lổ mới chỉ xong phần thô được vài tháng. Công trình này đang bị “đình chỉ” vô thời hạn. Chếch bên chái nhà, lội bộ vài chục mét, những hy vọng hoàn thiện nó đang héo mòn: khu vườn sầu riêng của ông đang nằm chờ chết.

110 cây trong vườn của ông giờ đều vô phương cứu chữa. Có cây vẫn còn lá, nhưng đang héo rũ. Có cây đã trụi còn trơ khung. Vài cây lớn chỉ còn mỗi thân, phía ngọn vát chéo xuống như bị chém. Nhưng dù hình thức ra sao, thì kết cục chung đều là phải chặt: đất quá mặn và rễ cây đã chết rồi.

“Căn nhà này do ông sui gia trên thành phố thừa vật liệu chở về cho tui, chỉ tốn công thợ” – Chỉ vào căn nhà cất đã ba năm nhưng chưa kịp trát và sơn, ông Văn nói. “Chờ sầu riêng trúng thì cố làm cho xong, mà năm nay coi như bỏ.”

Bên trong, ngoài gạch ra thì nhà trơ khung. Không khung cửa, không la-phông. Khu vệ sinh được dựng lên tạm bợ giữa nhà, ngăn cách với các gian khác cũng chỉ bằng gạch vữa, và không có trần. “Nội thất” bên trong là một cuộc gom góp đồ cũ từ khắp nơi, chủ yếu từ hai ông sui trên thành phố. Cần khoảng 100 triệu đồng nữa để cái khung này hoàn thành khái niệm một căn nhà.

Nhưng ông Văn có thừa sự kiên nhẫn. Di chứng của bệnh bại liệt khi nhỏ khiến một chân gần như bị hỏng, ông đã học cách sinh nhai bằng cách gom góp toàn bộ nghị lực từ những gì còn lại.

Khi cây sầu riêng còn tươi tốt, ông Văn thậm chí còn có thể leo thoăn thoắt lên tận ngọn để tỉa cành. Trong những ngày “vàng son”, ông đã gồng gánh cả một gia đình trên những bước chân tập tễnh này: ba đứa con trai giờ đều đã nên người, 2 người tốt nghiệp đại học và một người làm phụ bếp trên thành phố.

Nhưng dòng tiền bền bỉ ấy đến đây là đứt đoạn. Vào tháng Hai, ông Văn và người dân trồng sầu riêng ở xã Tam Bình (huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang) lần đầu tiên trong lịch sử biết đến độ mặn “tám chấm”. Bốn năm trước, đợt mặn trên diện rộng chỉ khoảng không 1,7-1,8. Giờ gấp bốn lần. Và tương lai bắt đầu nghe tiếng rạn vỡ theo những gốc sầu riêng ngã xuống.

Đi từ vườn ông Văn thẳng hướng Nam độ hơn một cây số, vượt qua con đường mòn chằng chịt phải rải gạch vụn cho dễ đi và chỉ vừa ba bánh xe máy của những khu vườn sầu riêng còn trơ khung, ra ngoài lộ bê-tông, là một bãi tập kết gỗ thời vụ.

Anh Nguyễn Văn Lõi làm việc ở đây đã sáu tháng nay. Trước hạn mặn năm nay, anh trồng sầu riêng để sống. Bây giờ, anh đi đốn sầu riêng, cũng để sống, nhưng trong một trạng thái hoang mang hơn. Khi hết cây để đốn, thì anh cũng hết sinh kế tạm thời.

“Mỗi ngày tụi tôi chặt chừng trăm cây lận, cứ thế đều đặn nửa năm nay” – anh lẩm nhẩm, tay vỗ lên một gốc cây mới đốn. “Nhà này tui đốn là lần thứ hai rồi. Mấy gốc ở đây chừng 20 năm tuổi là thường” – giọng người đàn ông đã từng gắn đời mình với cây sầu riêng này không cảm xúc. Có lẽ anh đã thấy cây chết đủ nhiều.

Dưới lưỡi cưa máy lạnh lẽo là những cây sầu riêng đã xong phận sự cuộc đời mình: “Mấy cây này coi vậy chứ nếu ra trái thì một năm cũng cho 10-15 triệu đấy, mà giờ thì xong rồi” – Anh Lõi cười. Bây giờ, những cây từng là ATM của một gia đình này khi bán cho lái buôn gỗ chỉ có giá 20.000 đồng một gốc, chưa đủ tiền mua nửa kilogam sầu riêng.

Gỗ sầu riêng rẻ vì ít công dụng, chẳng để làm gì. “Đến làm củi cháy còn không đượm” – anh thở dài. Sau khi 5 công sầu riêng chết không còn một gốc, anh cũng chẳng biết làm gì khác ngoài việc ném vào bếp lò.

Không có biên bản ghi nhớ nào trên thân cây sầu riêng chỉ còn trơ khung, về số cử nhân Đại học đã lớn lên nhờ nó, số mái nhà kiểu Thái đã được lợp cho nhiều gia đình từ tiền bán sầu riêng, và số ngày vui đã đi qua ở nơi được coi như là “thủ phủ sầu riêng” của miền Tây Nam Bộ này. Nhưng trong những tiếng cưa máy xè xè từ sáng cho đến tối, ai cũng có thể nghe thấy tương lai bất trắc.

Cai Lậy từng là vùng trồng lúa trọng điểm của tỉnh Tiền Giang, với năng suất có lúc cao nhất cả nước, đạt 17 tấn/ha/ba vụ trong năm. Nhưng nhiều năm làm lúa, người dân chỉ đủ ăn. Trước năm 2000, thu nhập 1 công lúa lời được có 1 triệu đồng/công. Làm vườn thì người dân 1 năm lời gấp 10 lần.

(Nguồn: Vietnam+)

Vì thế, một thập kỷ trở lại đây, hàng nghìn hecta đã được chuyển sang trồng cây ăn trái, mà sầu riêng là cây chủ lực. Trong những ngày huy hoàng, khi giá sầu riêng có lúc lên đến 80.000-100.000/kg, mỗi hecta thậm chí cho lãi lên đến 1 tỷ đồng/năm, nó đã biến nhiều nông dân chân lấm tay bùn một thời ở đây thành triệu phú.

“Mới năm ngoái thôi, xe còn chạy đầy tỉnh lộ, nhà ai cũng mở tiệc để ca” – ông Sáu Đen rít điếu thuốc, ngập ngừng nói với chúng tôi. Khói thuốc và ánh mắt nheo lại nhuộm cho lời của ký ức, dù cú sốc mới đi qua chỉ vài tháng thôi. “Năm nay mất trắng luôn rồi. Nhà tôi 5 công mà chết hơn phân nửa, trồng lại thì cũng mất 6-7 năm.”

Ông bảo, những người già nhất của ấp cũng không nhớ nổi có lần nào thiên nhiên khắc nghiệt đến vậy. Bốn năm trước cũng ngập mặn diện rộng, nhưng chỉ kéo dài một con nước. Nay mặn đã bốn tháng ròng, ngấm sâu vào đất, và những vườn sầu riêng cứ thế chết từ từ. Ông Sáu trồng sầu riêng đã gần 20 năm, nhưng chưa bao giờ chứng kiến nền kinh tế của cả vùng đứng khựng lại như lúc này.

Những quân domino lần lượt đổ rạp theo gốc sầu riêng. Lệ thường vào ngày thu hoạch, người dân ở đây hay thuê xe karaoke kẹo kéo về nhậu ăn mừng, tiếng ca vang lừng bốn bề sông nước. Năm nay, chỉ còn tiếng cưa máy. Đi dọc quốc lộ, các vựa trái cây lớn đóng cửa hàng loạt. Bên đường, thi thoảng lại bắt gặp những gốc sầu riêng nằm lăn lóc chờ xe tải đến chở đi.

Người trồng sầu riêng thường mua chịu phân thuốc, giờ mất vụ không có tiền trả, các đại lý phân bón cũng lao đao. Có người vay ngân hàng mấy trăm triệu để mở vựa sầu riêng, chưa được vụ nào đã phải bỏ hoang đó. Nhà nghỉ, khách sạn, quán cà phê mọc lên cấp tập vào những ngày sầu riêng được mùa phục vụ thương lái đổ về, nay cũng ế ẩm.

“Nhiều năm trồng sầu riêng, ở đây đã hình thành được 40 vựa thu mua cũng như sản xuất được các phụ kiện như hộp, thùng để có thể đóng gói xuất khẩu. Năm nay, sau hạn mặn, các vựa này đa số đóng cửa” – Bí thư xã Tam Bình, ông Nguyễn Tấn Nhũ, cho biết. “Các cơ sở sản xuất bao bì, thùng đóng gói hay các đơn vị cắt và chuyên chở trái cây cũng ngừng hoạt động, do đó một lượng lớn người dân tham gia vào dịch vụ này giờ thành thất nghiệp.”

Nhưng dù thế nào thì người dân vẫn phải tiếp tục sinh nhai. Ông Sáu Đen, cũng như anh Lõi, đã phải kiếm tạm nghề mới: đi phụ hồ. Ở tuổi gần 60, ông vẫn là lao động chính trong nhà. Con trai cả đã bỏ lên thành phố làm mướn. Con gái chưa lấy chồng. Mọi thứ đều dang dở.

Năm 1993, ông bỏ trồng lúa, làm lại đất để bắt đầu trồng giống sầu riêng khổ qua, có giá rất thấp và cũng không được năng suất. 8 năm trước, ông chuyển sang giống Ri6 giá tốt hơn, mới trúng được hai vụ, mỗi năm lời hơn trăm triệu, thì hạn mặn ập đến.

Gần hai thập kỷ lăn lộn với cây sầu riêng, kiếm được bao nhiêu, ông đổ hết vào nâng cấp căn nhà lá trước đây lên nhà gạch. Gian trên đã xong, nhưng gian dưới thì đã chờ 9 năm nay chưa thêm được một viên gạch.

Những căn nhà dở dang như của ông Sáu Đen và ông Tư Văn không hề xa lạ trong vài năm trở lại đây, khi thời tiết ngày một khắc nghiệt hơn với người nông dân, và cây sầu riêng thì luôn là một canh bạc với đất trời. Nếu chăm sóc tốt thì cũng phải 5 năm mới có trái, còn không thì thậm chí mất 7 năm, mà thu hoạch được 2-3 vụ thì thường phải nghỉ 1 vụ để dưỡng cây, và khi cây đã “hấp hối” thì thường là chín phần chết một phần sống.

“Sầu riêng khó trồng, nó bệnh rồi thì không cứu được, cứu thuốc gì cũng không được, như là cái bao tử bị hư rồi thì ăn gì cũng không được” – ngước nhìn lên một cây hiếm hoi còn sống được trong vườn, ông Tư Văn giải thích. “Mình dưỡng nó, đậy kỹ càng rồi, tu bổ, săn sóc nó tốt thì tốn ít tiền, không thì sau vài vụ là dễ chết cây lắm. Dạng hàng con cưng đấy. Vừa ăn uống vừa bồi dưỡng vừa trị bệnh, đủ thứ hết trơn.”

Nhưng ý chí con người luôn nhỏ bé trước tự nhiên. Bốn tháng rưỡi nước nhiễm mặn vừa qua, ông Văn đã chạy vạy bơm vào 5 công vườn của mình cả trăm triệu tiền nước, cho đến một ngày, người nông dân chịu khó chịu khổ thành quen này cũng hết kiên nhẫn, phải thừa nhận rằng “chẳng đâu vào đâu, chịu rồi đấy.”

Trước khi buông xuôi để đi đốn cây, anh Lõi đã cố cứu vườn sầu riêng bằng cách thức dậy từ tinh mơ để ra bến xếp hàng mua nước ngọt từ các sàlan, cặm cụi chở về trên chiếc xe Honda càng tàng, để rồi đen đủi đến nỗi phải kêu trời: “Gặp ba cái thứ nước quỷ pha chế kim loại gì đâu, càng tưới cây càng chết, mất cả trăm triệu tiền nước tưới 3 công đất.” Trong cơn hỗn loạn, đôi khi họ vẫn gặp những kẻ sẵn sàng trục lợi trên những vườn sầu riêng đang khát nước.

“Phải là người có tiền, chịu chi, bơm liên tục, kể cả chi mà không nhiều cũng vẫn chết. Hoặc những hộ thu trái rơi vào tháng 10-11 Âm lịch thì đỡ, ít bị thiệt hại hơn” – ông Đỗ Thái Hùng, một trong những người trồng sầu riêng hiếm hoi còn giữ được 90% cây trong vườn, cho biết. “Ai mà ăn trái tháng Giêng, tháng 2 Âm lịch là chết hết, lúc đó mặn lên rồi, cây sầu riêng đang đơm trái mà đầu tư không đến nơi đến chốn là chết hết luôn.”

Tuy nhiên, vụ này cây trong vườn ông Hùng cũng không ra trái, coi như bỏ trắng. Mương nước chỉ chứa khoảng 4-500 mét khối, nhưng vài tháng qua, ông đã bơm liên tục 2.500 mét khối nước ngọt vào để giữ cho cây sống.

Nhưng không có nhiều người có đủ khả năng đầu tư chi phí như ông: “Tôi vừa nghe thông tin là lập tức chuẩn bị sẵn, móc ao để giữ nước lại trong mương, sau này khi nước đỡ mặn tôi mới mướn bơm nước từ sà lan vào chứa trong mương, trực tiếp trong mương luôn, phân bổ đều thấm vào đất. Còn những ai chứa nước chỉ trong ao hoặc bơm nhỏ giọt là đa số chết hết” – ông Hùng nói.

Tỉnh Tiền Giang đã nhanh chóng ngăn hết 11 kênh rạch để ngăn mặn, đồng thời đưa ra gói nước “giải khát” gần 40 tỷ đồng cho người dân tưới tiêu. Nhưng thế vẫn chưa đủ để chống lại cuộc xâm lược của thiên nhiên.

Cách đó chỉ một giờ rưỡi xe chạy, vào cuối tháng Mười, khi nước triều lên làm ngập các đô thị Đồng bằng sông Cửu Long, một hội thảo về chính sách biến đổi khí hậu ở khu vực này được tổ chức. Và người ta mới giật mình biết rằng Đồng bằng sông Cửu Long đã bị bao vây: từ mùa khô 2019, mặn xuất hiện sớm, xâm nhập sâu và lập kỷ lục mới vượt đỉnh năm 2016.

Đỉnh mặn đo được ở sông Cổ Chiên tại các huyện Vũng Liêm và Măng Thít lên đến 6-10 phần nghìn, sông Hậu tại huyện Trà Ôn là 7,8 phần nghìn. Dù xa cửa biển đến 90 cây số, nhưng phía sông Tiền ở các xã cù lao Bình Hòa Phước và Đồng Phú, cách nơi trồng sầu riêng Cai Lậy không xa, đã xuất hiện nước mặn với nồng độ 4 phần nghìn.

Biến đổi khí hậu đã đi đến bàn giấy của chính sách vĩ mô hơi chậm một chút, sau khi đã tạo ra những hệ lụy không nhỏ đến một trong những nơi trù phú bậc nhất cả nước, như một lời nhắc nhở rằng cụm từ này rồi sẽ không còn để lại cảm giác mơ hồ như nó đã từng.

Nhưng đấy dường như vẫn là một thế giới khác, trong câu chuyện với những người nông dân. Ông Năm Toàn lắc đầu khi nghe đến cụm từ “biến đổi khí hậu.” Ông cũng hoàn toàn thờ ơ khi nghe chúng tôi nói về dự báo của Bộ Tài nguyên & Môi trường và Ngân hàng Thế giới, rằng 100 năm nữa, nơi ông và chúng tôi đang đứng đây có thể thấp dưới mực nước biển một mét, điều có thể sẽ làm cho tình trạng mặn ngày càng nghiêm trọng. “Sống chi đến ngày đó?” – ông cười.

Ông Năm không có đủ thì giờ để quan tâm nhiều thứ đến vậy. Ông không biết chữ, chưa từng đọc sách báo. Thế giới quan của người đàn ông ngoài ngũ tuần này rất đơn giản. Ngoài sầu riêng, ông chỉ có thú vui là nhậu. Và cũng chỉ khi nhậu, ông mới nói chuyện.

Đứng bên hàng gốc sầu riêng cỡ 15-20 năm tuổi vừa phải đốn hạ vì đợt mặn vừa rồi, ông chỉ cho chúng tôi xem cây sầu riêng mới trồng lại sáu tháng. Nó cao chưa bằng đứa con trai mới 8 tuổi của ông, và không có gì đảm bảo rằng nó sẽ sống đến ngày cho trái. Nhưng ông vẫn phải trồng, vì tương lai.

Đứa con đang học lớp hai ấy là kết quả cuộc hôn nhân của ông Năm với người vợ thứ hai, thua ông 13 tuổi. Người vợ đầu đã bỏ đi đâu không ai rõ, sau một năm chung sống và chưa kịp có mụn con nào. Sau lần kết hôn đầu không thành, ông lên Sài Gòn làm mướn, và gặp bà thứ hai trong những ngày lay lắt ấy. Cho đến một ngày, một trong những người anh trai của ông đi nước ngoài định cư, để lại 5 công sầu riêng. Ông về lại quê nhà Cai Lậy tiếp quản, và qua nửa đời người mới được sống với những hy vọng xa vời hơn là kiếm sống nuôi bản thân mình.

Qua 8 năm làm sầu riêng, đến 2017, ông cất được cái nhà khoảng 100 triệu đồng trên đất ông bà để lại. Trong những ngày huy hoàng của sầu riêng, ông không tiếc con mình cái gì. Ông mua cho nó một chiếc Iphone cũ, khoảng hai triệu đồng, còn đắt hơn cái cục gạch ông đang dùng. Lịch trình một ngày của ông xoay quanh hai cái “cây” rất bé mọn: sầu riêng và người. Sáng tám giờ chở con đi học, chiều bốn rưỡi lại nổ máy xe đón nó về. Trưa nắng chang chang thì ra vườn sầu riêng.

“Tui cũng không biết sao nữa, giờ đến đâu hay đến đó, khắc phục rồi ráng trồng tiếp thôi” – ông trả lời khi được hỏi về dự định tương lai. Nếu may mắn, ông sẽ lao động đủ thời gian để kiếm tiền cho con vào đại học. 7 năm 3 tháng nữa, người đàn ông 53 tuổi này sẽ đủ tuổi hưu theo quy định mới của Bộ luật Lao động 2019 (có hiệu lực từ ngày 1/1/2021). Nhưng tuổi hưu ở đây cũng vận hành theo một quỹ đạo khác: “Làm thì làm đến khi nào yếu hẳn mới nghỉ” – ông Năm bảo. Đây cũng là một biến số chỉ nhờ vào đất trời.

Với ông, phía trước là những con tính phức tạp: để cái cây sáu tháng mới trồng trụ lại cho đến khi thu hoạch được lần đầu, ông sẽ phải vừa chăm sóc và vừa cầu trời rằng mọi thứ sẽ suôn sẻ từ nay cho đến khi con ông vào cấp hai. Rồi mỗi năm lại thấp thỏm chờ đợi xem có nên đổi sang trồng bưởi, mít, rút ngắn quá trình thu hoạch, để “lo cho con nó học hết chương trình.” Hỏi chương trình gì thì ông cũng không biết nữa, vì cụm từ “cải cách giáo dục” có vẻ cũng xa lạ gần như “biến đổi khí hậu.”

“Bảo hiểm y tế thì còn có nhiều người có vì còn vận động mua, chứ bảo hiểm xã hội thì còn chưa nhiều” – một cán bộ ở Cai Lậy cho chúng tôi biết. Khi những cây sầu riêng ngã xuống, những người như ông Năm Toàn dường như cũng mất đi bảo hiểm cho tương lai. Có thể họ không giàu, nhưng nếu cây sầu riêng còn sống, đấy vẫn là chỗ dựa tinh thần: “Trúng 1-2 vụ là lại ca (hát) ngay” – ông Sáu Đen cười hì hì.

Nhưng đất trời có lẽ không còn chiều lòng người: dự báo của Viện Khoa học thủy lợi miền Nam cho biết năm 2021 nhiều khả năng là năm hạn mặn cao, có thể xuất hiện ngay từ những tháng đầu mùa khô và kéo dài đến tháng Năm, chưa kể các diễn biến thời tiết bất thường khác như triều cường, gió chướng.

Một năm bất thường chưa từng có của tự nhiên đã mở ra những tương lai bấp bênh. Ông Sáu Đen sống đến gần 60 tuổi vẫn “không biết mặt cái sổ tiết kiệm mần sao”, làm năm nào biết năm ấy. “Chi phí mùa vụ tới là hết tiền, xoay vòng tiền mắc nợ những người bán phân thuốc, rồi ngân hàng. Hồi cây tơ (trồng chờ cho trái lần đầu) chưa có trái, vay làm, trúng thì trả, thất thì thiếu nợ.”

Ông Tư Văn thì thừa nhận mình đã kiệt quệ sau nhiều năm dồn tiền nuôi con, cất nhà và đặc biệt là đổ tiền cố cứu sầu riêng giai đoạn vừa rồi. Ông Năm Toàn thì “cha già con cọc”: tiền nuôi con ông ăn học có thể sẽ ngày một nặng hơn theo lạm phát, trong khi những vụ sầu riêng giờ đã giống như một canh bạc mà phần thua đang nghiêng về phía người làm vườn. Quy hoạch cuộc đời họ dường như đã bỏ qua những tấm lưới an sinh xã hội, trong những ngày mà niềm tin đặt vào sầu riêng lên quá cao.

“Sầu riêng thì không phải lúc mặn nó chết ngay đâu, mà sau mặn mới chết. Đất bị nhiễm mặn, rễ nó chết là chết từ từ” – ông Tư Văn nhận xét.

Đất khô nước

và ký ức không còn những gương mặt…

Phạm An

Trong nhiều năm qua, có một nghịch lý vẫn diễn ra ở Đồng bằng sông Cửu Long: cho dù tin tức hàng năm có tuyên bố những chiến thắng lớn về sản lượng nông nghiệp, thì lực lượng lao động ở độ tuổi sung sức ở đây vẫn cứ lần lượt bỏ xứ mà đi. Và năm nay, câu chuyện có thể trở nên nghiêm trọng hơn, vì biến đổi khí hậu.

Bà Mai Thị Thê loay hoay mãi mới mở được tủ kính để lấy cho chúng tôi xem tấm ảnh cưới của con trai và con dâu. Gần 90 tuổi, hai chân đã yếu đến nỗi chỉ gượng đứng, chứ gần như không tự đi nổi, bà đang sống nốt cuộc đời bằng ký ức: nhiều tháng rồi, bức ảnh đóng khung trang trọng này, vật hiếm hoi trong nhà không đóng bụi hoặc cáu bẩn, là hơi ấm gia đình.

“Không nhớ nổi. Tui không nhớ nổi tên các con nữa. Có đứa mặt còn quên luôn rầu (rồi)” – Bà Ba Thê vỗ trán. Quê ở Vĩnh Lợi (Bạc Liêu), bà theo chồng đến đất Thới Bình (Cà Mau) từ khoảng 40 năm trước. Ông mất đã lâu, và trước khi một mình một nhà như bây giờ, bà ở với vợ chồng con trai út cùng 4 đứa cháu.

Ông bà có cả thảy 10 đứa con, nhưng giờ ngoài đứa con út mới đi Bình Dương, bà chỉ còn gặp lại được 2 người, và thời gian sum họp dài đằng đẵng. “Một đứa là bộ đội ở Bạc Liêu, một đứa ở Rạch Giá còn thi thoảng xuống thăm tui, thường là vài tháng mới có (một) lần”.

Bà Mai Thị Thê mở tủ để lấy cho chúng tôi xem bức ảnh cưới của hai vợ chồng con trai út. Ảnh: Minh Sơn/Vietnam+  
Bà Mai Thị Thê mở tủ để lấy cho chúng tôi xem bức ảnh cưới của hai vợ chồng con trai út. Ảnh: Minh Sơn/Vietnam+  

Trong ảnh là con trai út của bà và con dâu. Ở miền Tây, lệ thường là con trai út sẽ ở với cha mẹ để phụng dưỡng. Nhưng vụ lúa-tôm thất bát vừa rồi đã chặt đứt nốt mối nối còn lại của gia đình: “2 vụ lúa tôm đều thất (mất mùa), trắng tay, thằng út nó nợ nhiều quá nên phải đưa cả nhà đi làm mướn tận Bình Dương” – bà cười như mếu.

Gia đình bị xẻ làm đôi, sau khi những hy vọng cuối cùng bị dập tắt trong một năm quá khắc nghiệt. Hai đứa cháu của bà Thê theo cha mẹ, còn hai đứa ở nhà với bác bên ngoại. Một trong hai đứa ở nhà thì vẫn sang ngủ và nấu cơm cho bà. Tiền sinh hoạt giờ cũng nhờ bác lo.

“Giờ chỉ còn khoảng 30% người trong độ tuổi lao động chính còn ở địa phương thôi, còn 70% đã phải ly hương, đi làm ngoài tỉnh” – anh Lê Thành Văn, trưởng ấp Thanh Tùng (xã Biển Bạch, huyện Thới Bình, Cà Mau), cho biết. “Những hộ gia đình có nhiều đất thì còn bám trụ lại làm vuông tôm, tuy mất mùa nhưng vẫn đành sống tạm, ít đất thì đành bỏ đi làm công; những người có cha mẹ già ở nhà không đi khỏi địa phương được thì đi làm thuê trong công ty lâm nghiệp U Minh Hạ, cắt cây sống qua ngày.”

Giữa tháng 12 vừa qua, lễ công bố báo cáo kinh tế thường niên Đồng bằng sông Cửu Long 2020 do Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam (VCCI) tổ chức đã đưa ra một con số đau lòng: có 1,3 triệu người dân Đồng bằng sông Cửu Long đã di cư trong 10 năm qua, dân số tương đương với hơn một tỉnh trong vùng.

Theo báo cáo này, Đồng bằng sông Cửu Long có 17,3 triệu dân, tỷ lệ nhập cư thấp nhất và xuất cư cao nhất cả nước. Trong một thập kỷ qua, khi cả nước tăng 1,14% dân số, thì tỷ lệ này ở đây là 0%. Hai năm vừa rồi, dân số toàn vùng giảm 0,3%. Các chuyên gia dự báo rằng nếu không có đột biến, đến năm 2030, dân số Đồng bằng sông Cửu Long sẽ xuống dưới 17 triệu người. Tức là tương đương 1 tỉnh nữa ly hương.

Biến đổi khí hậu có thể làm quá trình này diễn ra nhanh hơn nữa: Đồng bằng sông Cửu Long thiếu các cơ sở hạ tầng để đáp ứng việc làm các ngành ngoài nông nghiệp và thủy sản, trong khi đó, thiên nhiên bắt đầu trở nên khắc nghiệt và khó đoán hơn bao giờ hết.

Trên chuyến xe giường nằm cuối tuần từ Sài Gòn về quê nhà Bạc Liêu, Tư Kháng lẩm nhẩm theo một bài hát rap khá nổi tiếng gần đây hay được nhà xe phát. Anh khá ngạc nhiên, vì trước đây chỉ toàn được nghe bolero. Trong bài có hai câu thế này:

“Nếu mà mệt quá, giữa thành phố sống chồng lên nhau

Cùng lắm thì mình về quê, mình nuôi cá và trồng thêm rau.”

Nhưng Kháng sẽ chỉ ngủ ở nhà được một đêm, ăn một bữa cơm với gia đình, rồi lại tất tưởi lên Sài Gòn để đi bán điện thoại cho một siêu thị. Bữa cơm kém vui một chút, vì vụ năm nay, nhà làm lúa không “trúng” lắm.

Kháng là con thứ ba trong một gia đình có 5 người con, tất cả đều đi làm ăn tha phương. Nhà Kháng có 2 mẫu ruộng. Ba của Kháng, năm nay 55 tuổi, là lao động chính. “Ở lại thì không có việc gì làm, làm nông giờ ai biết làm đâu anh, mà cực quá” – Kháng cười nói.

Ở thành phố, thu nhập của Kháng cũng được 7-8 triệu đồng/tháng, đủ để trang trải các chi phí thuê nhà, ăn uống. Không nhiều nhưng lương đều đặn và công việc cũng không quá vất vả. Quan trọng hơn, “về quê, nuôi cá và trồng rau” giờ cũng không phải một lựa chọn đơn giản. Đồng ruộng dường như không phải chỗ hợp với những người trẻ.

4 giờ 30, ông Nguyễn Văn Viễn đã thức. Vệ sinh cá nhân khoảng 15 phút, ông nhét vội vài cái bánh Chocopie và mấy quả chuối vào bọc ni-lông làm bữa sáng dọc đường. Cần gần 1 phút mới đạp nổ được chiếc Honda “ngoan cố” cũ kỹ có tuổi thọ gần 30 năm. Ruộng cách nhà khoảng 2 cây số. Ông sẽ làm việc ở đây đến gần 1 giờ trưa, về nhà ăn cơm 30 phút, rồi lại tiếp tục lao động đến khi nắng tắt.

Lịch trình này đã diễn ra đều đặn 30 năm, trong những ngày mùa vụ, từ khi anh y tá quân y Nguyễn Văn Viễn phải lòng chị Út Thủy ở ấp Hưng Điền A, huyện Vĩnh Hưng (Long An), người sau này ông sẽ lấy làm vợ, và cũng là người dạy ông làm ruộng. Giờ thì ông đã trở thành “nông dân vàng”: với nghề làm ruộng, hai ông bà đã nuôi 4 đứa con ăn học nên người, vào đại học và giờ đều đã công ăn việc làm ổn định. Một ngoại lệ hiếm hoi ở nơi đây.

Năm nay 58 tuổi, ông có sức chịu đựng mà thanh niên cũng khó bì kịp, dù xuất phát điểm thể chất không hoàn hảo: mỗi ngày mùa vụ, ông làm việc ít nhất 15 tiếng/ngày, dưới trời nóng như đổ lửa. Gần 20 năm nay, sáng nào ông cũng phải uống 1 viên thuốc huyết áp. Chứng hở van tim 2 lá cũng đeo đẳng 10 năm. Không hút thuốc, không uống rượu, khám sức khỏe định kỳ thường xuyên, bằng một kỷ luật hiếm thấy, ông cứ thế vượt qua bệnh tật, để làm việc nuôi con.

(Nguồn: Vietnam+)

Người con thứ hai, giờ đã là một bác sỹ, đã từng theo cha ra đồng khi còn nhỏ lần đầu tiên và duy nhất, thấm thía sự vất vả đến nỗi đã hứa với cha mẹ mình rằng sẽ “ráng học để sau này không phải làm lúa nữa.”

Giờ thì ông bà đã toại nguyện, trong một khung cảnh vừa vui (vì các con đã khôn lớn đúng như ông bà kỳ vọng), vừa đượm buồn. Đêm Giao thừa năm nay, có thể chỉ có một trong bốn đứa con về chung vui với ba mẹ: 2 người con gái đi lấy chồng xa, còn người con trai bác sỹ có thể có lịch trực ở bệnh viện.

Ông Viễn và rất nhiều người cao tuổi trong họ mạc nói riêng và của cả vùng nói chung có thể là những người làm nông cuối cùng ở đây. Kinh tế của đa số các địa phương ở Đồng bằng sông Cửu Long đang dựa chủ yếu vào những người già.

Tỷ lệ phụ thuộc người già đã tăng nhanh từ 8,8%  năm 2009 lên 14,4% vào năm ngoái. Kết quả điều tra dân số và nhà ở năm 2019 của Tổng cục Thống kê cũng cho thấy chỉ số già hóa toàn vùng là 58,5%, tăng đến 24,3 điểm % so với năm 2009 (34,2%), cao nhất cả nước. Trong khi đó, lao động trong độ tuổi dưới 35 giảm mạnh từ 45,5% năm 2012 xuống còn 38,9% vào năm 2017.

Vụ lúa vừa rồi, năng suất cũng không được tốt như trước, không phải vì hiệu suất lao động của những người già kém đi: số giờ phơi lưng ngoài đồng của  ông Viễn và những người nông dân như ông không giảm. Nhưng 2 năm nay, con nước về muộn, và không lên cao như mọi năm, phù sa lẫn cá tôm về ít. Cư dân ở đây, như hầu hết những người dân Đồng bằng sông Cửu Long, sống nhờ con nước lên, đã phải trải qua một mùa lũ không vui.

Anh Ba Dùng, một trong những người “sát cá” nổi tiếng ở xã Tuyên Bình Tây (Vĩnh Hưng, Long An), đã từng kiếm được 60-70 triệu đồng trong vài tháng con nước lên. Giờ thì bằng tất cả kinh nghiệm về thói quen của cá và hiểu biết con nước, giỏi lắm anh cũng chỉ kiếm được đủ ăn, và thêm được nhiều nhất 20 triệu đồng, giảm 1/3 thu nhập.

Anh có hai con, một học cấp ba, và một đang học ngành dược ở Cần Thơ. Anh, cũng như ông Viễn, đều đang nuôi một thế hệ đã được “quy hoạch” là sẽ thoát khỏi đời chân lấm tay bùn.

Trong thâm tâm, bằng kinh nghiệm của mình, họ cảm nhận được sự trù phú này sẽ không phải là vĩnh viễn: “2 năm nay cá ít hơn rồi, bắt cũng khó hơn, có giống cá còn không thấy xuất hiện nữa” – ông Viễn nhìn xuống chỗ cá mới vào dớn đã đặt từ hôm trước. Không ít nhà ở ấp ông đang ở đầu tư mấy triệu mua lưới, nay cá tôm về ít, cũng lỗ.

“Hồi trước, lũ kéo vào dâng quá thềm, lụt cả vào nhà, phải ngồi lên giường” – ông nhớ lại. Cách đây 20 năm, đứng từ nhà nhìn ra xung quanh toàn một biển nước. Một thập kỷ đổ lại, ông chỉ nhớ nổi một lần nước dâng lên thềm. Mấy năm trở lại, nước chỉ lên ngập quá ruộng một chút.

Theo thống kê của Viện khoa học Thủy lợi miền Nam, trong 60 năm trước thời điểm năm 2000, cứ hai năm thì Đồng bằng sông Cửu Long có 1 năm lũ lớn, vượt báo động 3. Trong các năm 2000-2002, lũ lớn đều xuất hiện. Nhưng trong 10 năm trở lại đây, lũ lớn chỉ xuất hiện một lần vào năm 2011. Tính toán cho thấy tần suất xuất hiện lũ lớn ở Đồng bằng sông Cửu Long bây giờ là 7%-10%, tức 10-15 năm có một lần lũ lớn. Nhưng đến năm 2040, tỷ lệ này có thể chỉ còn 1%, tức trên 100 năm mới xuất hiện một lần.

Đấy hẳn là một thảm họa: lũ lớn không về đồng nghĩa với việc Đồng bằng sông Cửu Long sẽ thiếu phù sa bồi đắp, và xâm nhập mặn với sạt lở gia tăng. Không còn nhiều chỗ để “đứng” nữa, và thêm người ra đi là viễn cảnh không phải khó tưởng tượng.

Ông Trần Bình Đặng không rõ có bao nhiêu người đã đi. Ông chỉ biết rằng mình phải ở lại: “Đất này nhà mình mà, đi đâu nữa con”. Năm nay 77 tuổi, ông vẫn là “tổng công trình sư”, thân chinh ra đồng, đội cả trời nắng mưa: “Các con có mần (làm) thì mình vẫn không nghỉ hẳn được, tụi nó có cái không biết mần (làm), mình vẫn phải ra hướng dẫn.” Ông có 9 người con cả thảy. Với mấy chục năm kinh nghiệm, ông đã từng tin rằng sẽ không bao giờ mình lẫn “tập đoàn gia đình” này rơi vào cảnh một vụ trắng tay nữa.

“Hôm đó, tui đi thăm vuông tôm, tự dưng thấy tôm nổi đầu lên mé bờ hàng loạt, cuống cuồng đi vớt lên, cứu được chút đỉnh nào hay chút đó” – ông Ba Đặng vẫn còn nhớ rõ cái ngày sự tự tin của ông sụp đổ. “Thật ra cũng không phải là cứu nữa, kỹ sư cũng phải chịu thôi, chỉ cố đặt lưới bắt lên bờ được con nào hay con nấy. Bình thường các năm cũng trồi sụt, nhưng không đến nỗi trắng trơn như năm nay.”

Trong gần 20 năm, mô hình lúa-tôm là chìa khóa giúp người nông dân ở huyện Thới Bình, Cà Mau chống chọi lại với sự khắc nghiệt của mảnh đất này. Canh tác lúa trên đất nuôi tôm giúp họ thích ứng với sự thất thường của con nước lẫn đất trời. Mùa hạn, nông dân Thới Bình bơm nước mặn từ kênh thủy lợi vào đồng để nuôi tôm, cua, cá.

Bản đồ dự báo phân bố độ mặn khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. (Nguồn: Trung tâm Dự báo Khí tượng thủy văn quốc gia)
Bản đồ dự báo phân bố độ mặn khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. (Nguồn: Trung tâm Dự báo Khí tượng thủy văn quốc gia)

Mùa mưa đến, đồng ruộng được rửa mặn, các chất thải sau vụ tôm rất tốt cho bộ rễ cây lúa. Thu hoạch xong, thân và rễ lúa phân hủy lại kích thích sự phát triển của các phiêu sinh vật làm thức ăn cho tôm. Lúa và tôm cộng sinh đem lại hiệu quả kinh tế, xóa đói, giảm nghèo cho cả vùng.

Nhưng năm 2020 khốc liệt chưa từng có. Đầu năm, nước nhiễm mặn quá nặng, tôm thả xuống không lớn nổi. Cuối tháng Tám, ảnh hưởng của bão gây ngập úng, tôm cua sót lại bò khỏi vuông, trôi ra sông. Những con còn sót lại cũng chết vì đáy vuông tôm bị lạnh. Khi gieo sạ vụ lúa Đông Xuân, đất bị nhiễm phèn và mặn quá nặng, lúa cũng chỉ lên được tầm một gang tay là bắt đầu chết.

“9 đứa con tôi làm thì 8 đứa làm thất (mất mùa), mỗi một đứa thì đỡ đỡ” – nói đoạn, ông Ba Đặng chỉ ra cánh đồng. “Đỡ đỡ là thế này nè, nhưng rồi cũng chết thôi” – ông thở dài. Ngoài ruộng, nhìn từ xa vẫn còn màu xanh. Nhưng lại gần mới thấy gốc lúa đã chết khô. “Đỡ đỡ” đơn giản là chết chậm hơn.

Là một trong những người còn nhiều đất hiếm hoi của vùng này, ông Đặng và các con sẽ cố bám trụ. Nhưng mùa vụ đầu tiên trắng tay từ lúa đến tôm đã để lại những dư chấn không hề nhỏ.

Nhưng năm 2020 khốc liệt chưa từng có. Đầu năm, nước nhiễm mặn quá nặng, tôm thả xuống không lớn nổi. Cuối tháng Tám, ảnh hưởng của bão gây ngập úng, tôm cua sót lại bò khỏi vuông, trôi ra sông. Những con còn sót lại cũng chết vì đáy vuông tôm bị lạnh.

Khi gieo sạ vụ lúa Đông Xuân, đất bị nhiễm phèn và mặn quá nặng, lúa cũng chỉ lên được tầm một gang tay là bắt đầu chết.

Kéo một nắm lúa vẫn còn màu xanh ở ngọn lên, ông Lê Văn Thưởng, ở không xa nhà ông Ba Đặng, chỉ vào phần rễ đen sì, khô đét: “Đây, thế này là lúa chết, không hút được gì nữa.” Năm nay dù đã ngoài 50 tuổi, ông lao động với tâm trí của một người dường như còn rất nhiều thời gian cho tương lai: công sức trên đồng lúa-tôm chủ yếu dùng để trả nợ tín dụng, trong suốt 10 năm qua.

“Tôi vay 200 triệu đồng để đầu tư làm lúa-tôm và cất được cái nhà, sau vài năm thấy nó thành 220 triệu đồng, hoảng quá mới tính bán đất” – ông Thưởng chỉ vào mảnh ruộng lớn trước mặt. Một nửa khoảnh đất này đã không còn là của ông nữa. “Tui phải bán không thì lãi mẹ đẻ lãi con, không cáng đáng được. Vị chi là tui mất 1,6ha rồi. Năm nay còn trắng tay nữa, chưa biết tính sao.”

Sự thất thường của thời tiết không chỉ tấn công trực tiếp vào đồng ruộng-vuông tôm, mà còn gặm nhấm dần tài nguyên quan trọng nhất: đất. Hiện toàn vùng Đồng bằng sông Cửu Long có gần 2 triệu hecta đất trồng lúa mỗi năm, trong đó, khoảng 58,5% diện tích đất có yếu tố phèn, mặn, nghèo dinh dưỡng.

Vùng đất trù phú này đã bắt đầu đi đến giới hạn, sau nhiều năm canh tác chỉ đơn giản bằng chủ nghĩa kinh nghiệm và hy sinh sức khỏe thuần túy: “Nếu mà thời tiết khắc nghiệt kéo dài thế này thì vùng đất sẽ bạc màu, thiên nhiên không còn ưu đãi thì bà con lâm nguy” – anh Văn, trưởng ấp Thanh Tùng, chỉ vào một phần ruộng nứt nẻ bạc phếch.

Hình ảnh phổ biến ở toàn vùng Đồng bằng sông Cửu Long vẫn là người nông dân đeo một bình thuốc sâu và cứ thế đi xịt chay cả cánh đồng. Trước đây, để tiết kiệm chi phí, ông Viễn tự vác bình đi xịt thuốc. Mỗi lần về đến nhà, ông đều thấy “tức ngực, không thở nổi”, dù be bịt kín đến đâu. Giờ ý thức được rằng “độc hại lắm”, ông mướn người xịt.

Theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới vào năm ngoái, hầu hết nông dân trồng lúa đều sử dụng phân bón và thuốc bảo vệ thực vật nhiều hơn mức được khuyến nghị. Quan trắc môi trường cho thấy nước bề mặt trên sông Tiền, sông Hậu và các cửa sông thông ra biển… đã có các dấu hiệu bị ô nhiễm. Hệ sinh thái suy giảm vào một thời điểm tự nhiên đang trở nên “nhạy cảm” ở Đồng bằng sông Cửu Long.

Vùng đất trù phú này đã bắt đầu đi đến giới hạn, sau nhiều năm canh tác chỉ đơn giản bằng chủ nghĩa kinh nghiệm và hy sinh sức khỏe thuần túy

Hệ sinh thái suy giảm không chỉ là câu chuyện của khoa học, mà còn là về các gia đình và những ký ức tập thể của nó. “Hai vợ chồng nó đi từ Tết đến giờ, hơn một năm rồi. Mới về được đúng lần giỗ ba nó. Lâu thế này, tui chỉ sợ quên nốt mặt tụi nó”– bà Ba Thê hơi nghẹn ngào.

Bà vẫn đưa tay lên đếm được rằng mình có 5 đứa con trai, 5 con gái, nhưng giờ chỉ nhớ nổi vài kỷ niệm, như là đã đưa cậu con trai thứ năm đi nhập ngũ, “dắt nó lên tận tầng ba rồi tui mới về,” câu chuyện mà bà nhắc đi nhắc lại đến 3 lần khi nói với chúng tôi. Bà không thể nhớ nổi đã mất liên lạc với từng người như thế nào, và nỗi sợ “quên nốt mặt tụi nó”, những người con của bà, không hề là một chuyện đùa.

Có lẽ vì bà biết rằng các sự kiện đã và đang nhòa đi nhanh hơn. Trong trí nhớ đã rất lẫn lộn của bà chỉ còn những con số, không có gương mặt. Và bà dường như rất thèm những gương mặt.

– Bà có nhớ các con không?

– Cũng nhớ, giờ mong con cháu về cho bà chúng nó tiền, nuôi mình chứ giờ chả biết sao, mà nó đâu có dzìa. Mà các chú có quay lại không?

– Vâng chúng con sẽ còn quay lại.

– Nhớ nhé, trước cũng có mấy chú vào làm lại chứng minh nhân dân cho tui, xong có nói sẽ quay lại thăm mà mãi chưa thấy!

– Vâng!

Đồng bằng của gần 20 triệu dân

Nguy cơ chìm vì bị “đe dọa” nghiêm trọng

Hùng Võ

Trong vòng 10 năm qua, Đồng bằng sông Cửu Long đã liên tiếp phải hứng chịu hai đợt hạn hán, xâm nhập mặn phá vỡ mọi kỷ lục được xác lập trước đó, gây ảnh hưởng nặng nề đến hoạt động sản xuất và thiếu nước sinh hoạt trầm trọng; hơn 1,3 triệu người dân trong vùng đã rời quê hương, như là một trong những biện pháp ứng phó với biến đổi khí hậu, để có một cuộc sống ổn định hơn… đó là những con số đáng báo động đã xảy ra ở vùng đồng bằng của gần 20 triệu dân.

Đáng nói là, thực tế đáng buồn trên được dự báo sẽ còn xảy ra, khi nhiều nghiên cứu công bố trong thời gian gần đây đã cảnh báo vùng đồng bằng này hiện chỉ cao 1-2m so với mực nước biển và nếu tiếp tục để khai thác cát và nước ngầm tự do như hiện nay thì đến năm 2100, nguy cơ vựa lúa số 1 của Việt Nam sẽ bị chìm.

Trao đổi với phóng viên VietnamPlus, ông Tăng Thế Cường – Cục trưởng Cục Biến đổi khí hậu (Bộ Tài nguyên và Môi trường) cho rằng Đồng bằng sông Cửu Long được đánh giá là một trong ba đồng bằng châu thổ lớn của thế giới bị đe dọa nghiêm trọng nhất bởi biến đổi khí hậu diễn ra ngày càng phức tạp và khó dự báo.

Trong đó, tài nguyên nước của vùng bị tác động mạnh nhất và trực tiếp nhất trước diễn biến của biến đổi khí hậu và từ việc khai thác sử dụng nước phía thượng nguồn. Hệ quả của nó là dòng chảy trên sông Mekong suy giảm nghiêm trọng, đạt mức thấp kỷ lục dẫn đến tình trạng hạn hán, xâm nhập mặn, thiếu nước ngọt… kéo theo các vấn đề về dân sinh, kinh tế và môi trường đã xảy ra những năm gần đây.

Tình trạng hạn hán, xâm nhập mặn, thiếu nước ngọt… kéo theo các vấn đề về dân sinh, kinh tế và môi trường đã xảy ra những năm gần đây. (Nguồn: TTXVN)
Tình trạng hạn hán, xâm nhập mặn, thiếu nước ngọt… kéo theo các vấn đề về dân sinh, kinh tế và môi trường đã xảy ra những năm gần đây. (Nguồn: TTXVN)

Các nghiên cứu, đánh giá của Việt Nam và quốc tế cũng cho thấy các thay đổi của hạn hán, xâm nhập mặn tại Đồng bằng sông Cửu Long bị tác động bởi các lý do như: xâm nhập mặn vào sâu nội địa xảy ra sớm, ranh mặn đã sâu hơn trung bình từ 5-15km; kỷ lục năm 2019-2020, sâu hơn trung bình nhiều năm từ 10-25km và kéo dài, được đánh giá là nghiêm trọng. Độ mặn cũng cao hơn. Theo số liệu đo tại các trạm mùa khô 2019-2020, độ mặn cao hơn từ 1-7g/l so với trung bình nhiều năm.

Bên cạnh đó, chế độ dòng chảy trên dòng chính sông Mekong chịu ảnh hưởng lớn của việc vận hành tích nước từ các hồ chứa thượng nguồn và khai thác sử dụng nước của các quốc gia ven sông, đã ảnh hưởng và làm trầm trọng hóa tình trạng hạn hán, thiếu nước ở hạ du.

Theo ước tính sơ bộ, tổng lượng nước sử dụng gia tăng thêm trong mùa khô 2019-2020 ở các quốc gia thượng nguồn hạ lưu vực sông Mekong tăng khoảng 3,6 tỷ m3 so với trung bình nhiều năm (tăng khoảng 25%).

Theo thống kê từ các địa phương, mức độ thiếu nước sinh hoạt lúc cao nhất (từ 6-24/3/2020) tổng cộng có khoảng 96.000 hộ gia đình với khoảng 430.000 người dân.

Trong khi đó, các cửa sông ở Đồng bằng sông Cửu Long bị bào xói sâu hơn do những năm gần đây lũ thấp, lượng phù sa ít, tạo điều kiện thuận lợi cho mặn lên cao; đặc điểm địa hình vùng đồng bằng này bằng phẳng và thấp ngang mực nước mặt biển, không có nhiều hồ chứa, hồ điều hoà, nên khả năng giữ nước kém và phụ thuộc rất lớn từ nguồn nước được cung cấp từ thượng nguồn sông Mekong.

Ngoài ra, tình trạng hạn hán, thiếu nước kéo dài làm mực nước trên các kênh trục xuống thấp, nhiều tuyến kênh rạch khô cạn, cũng đã dẫn đến tình trạng sạt lở bờ kênh, đường giao thông và nhà dân sống ven kênh ngày càng trầm trọng hơn.

Có chung đánh giá, giáo sư tiến sỹ Trần Thục, Phó Chủ tịch Hội đồng tư vấn của Ủy ban quốc gia về biến đổi khí hậu cũng cho rằng Đồng bằng sông Cửu Long đang đứng trước những nguy cơ, thách thức lớn, ảnh hưởng đến sản xuất và dân sinh, đặc biệt là tác động của biến đổi khí hậu với việc phát triển ở phía thượng lưu.

Về biến đổi khí hậu và thiên tai, theo giáo sư tiến sỹ Trần Thục, Đồng bằng sông Cửu Long có đặc điểm địa chất, thổ nhưỡng ven bờ có lớp sét, cát pha xen kẽ; những lớp hạt cát do không có lực dính liên kết cùng với các hoạt động sử dụng đất làm tăng tải trọng lên bờ, sẽ tạo ra hình dạng như hàm ếch… Điển hình như hiện tượng sạt lở phức tạp đã xảy ra tại khu vực An Giang trong năm 2016…

Số liệu thống kê của các địa phương cũng cho thấy từ năm 2005 đến nay bờ biển vùng Đồng bằng sông Cửu Long bị xói lở với tốc độ khoảng 300 ha/năm, xảy ra chủ yếu dọc bờ biển Kiên Giang và Cà Mau. Tốc độ sạt lở trung bình 26-30m/năm trong đó đoạn bị xói lở cao nhất 50-67m/năm ở khu vực cửa sông Bồ Đề. Biến đổi khí hậu có thể làm gia tăng nguy cơ xói lở bờ biển tại khu vực Mũi Cà Mau.

Đáng chú ý là việc thiếu nước ngọt vào mùa khô dẫn đến tăng sử dụng nước ngầm lấy từ các tầng chứa nước sâu. Việc sử dụng nước ngầm hiện nay cho sinh hoạt và cho các hoạt động sản xuất tại Đồng bằng sông Cửu Long đang làm cạn kiệt các tầng nước ngầm đặc biệt tại bán đảo Cà Mau và khu vực Thành phố Hồ Chí Minh.

Theo kết quả ban đầu của nghiên cứu hợp tác giữa Việt Nam với Viện Địa kỹ thuật Na Uy cho tỉnh Cà Mau, tốc độ sụt lún địa chất do khai thác nước ngầm ở Cà Mau là 1,9-2,8 cm/năm, tốc độ lún lớn nhất có thể lên tới 3,3 cm/năm.

Bên cạnh đó, việc thay đổi chế độ dòng chảy đến đồng bằng, đặc biệt là suy giảm dòng chảy mùa cạn; suy giảm lượng phù sa đến đồng bằng; gia tăng các điều kiện khí hậu cực đoan và thiên tai; nước biển dâng do biến đổi khí hậu; sụt lún đất do khai thác nước ngầm quá mức và do thiếu phù sa bù đắp; gia tăng xâm nhập mặn cũng là những tác động lớn đối với Đồng bằng sông Cửu Long. Trong đó, sụt lún đồng bằng do thiếu phù sa bù đắp là nguy cơ lâu dài và nghiêm trọng nhất…

Đáng chú ý, theo nghiên cứu của một số tổ chức quốc tế, trong vòng 25 năm qua, Đồng bằng sông Cửu Long từ vùng đất ổn định đã rơi vào tình trạng thiếu hụt trầm tích, “đói” phù sa, gia tăng biên độ thủy triều, xâm nhập mặn, gây khan hiếm nguồn nước ngọt, sụt lún và xói lở đất nghiêm trọng. Tiến sỹ Philip Minderhoud (Đại học Utrecht-Hà Lan) cho rằng nếu khai thác cát, nước ngầm “tự do” vẫn diễn ra như hiện nay thì đến năm 2100, nguy cơ vựa lúa số 1 của Việt Nam sẽ bị chìm.

Những năm gần đây, sự gia tăng tốc độ sụt lún đất ở đồng bằng sông Cửu Long đã làm tăng nguy cơ xâm nhập mặn, lũ lụt và sạt lở bờ biển ngày càng nghiêm trọng. (Ảnh: Lê Minh Sơn)

Các chứng cứ khoa học do Đại sứ quán Hà Lan cung cấp cho báo chí trong thời gian qua cũng chứng minh rằng so với mực nước biển dâng 3-5mm/năm do biến đổi khí hậu, nhiều khu vực ven biển tốc độ sụt lún sẽ lên 20-30 mm/năm do khai thác nước ngầm, tải trọng hạ tầng đô thị và sự thoát nước của tầng ngập nước.

Những năm gần đây, sự gia tăng tốc độ sụt lún đất ở đồng bằng sông Cửu Long đã làm tăng nguy cơ xâm nhập mặn, lũ lụt và sạt lở bờ biển ngày càng nghiêm trọng. Minh chứng là trong 10 năm qua, biên độ thủy triểu ở đồng bằng sông Cửu Long đã tăng tới 40% do các lòng sông sâu hơn trung bình 2-3m vì thiếu hụt trầm tích.

Nguyên nhân gây thiếu hụt trầm tích ở Đồng bằng sông Cửu Long, được tiến sỹ Minderhoud đưa ra trước tiên là do hoạt động xây dựng đập thủy điện ở thượng nguồn sông Mekong, cùng với hoạt động khai thác cát quy mô lớn ở hạ lưu đã làm tăng độ sâu của lòng sông do “đói” phù sa cũng như gây xói mòn hai bên bờ sông.

Bên cạnh đó, việc khai thác nước quá mức và xây dựng các công trình tại các vị trí xung yếu đã gây ra hiện tượng sụt lún. Hai nguyên nhân này cũng góp phần làm gia tăng triều cường. Chưa kể, sự thay đổi của thủy triều và độ sâu của các con sông cũng làm tăng thêm mức độ xâm nhập mặn Đồng bằng sông Cửu Long.

“Nghiên cứu cho thấy trước những năm 1990, Đồng bằng sông Cửu Long dường như không có sự sụt lún, nhưng những năm gần đây tốc độ sụt lún đã tăng lên rõ rệt. Khi đứng bên bờ biển, chúng ta cứ ngỡ như nước biển đang dâng lên, nhưng thực ra là do nền đất của chúng ta đang thấp xuống,” tiến sỹ Minderhoud nói.

Vị chuyên gia đến từ Đại học Utrecht-Hà Lan cũng lưu ý rằng trong vòng 10 năm qua, nguồn nước tại các dòng sông đã bị suy giảm đáng kể, lòng sông ở Đồng bằng sông Cửu Long thấp xuống đã khiến thủy triều thay đổi nghiêm trọng hơn. Nguyên nhân được nhận định là do biến đổi khí hậu, băng tan. Tuy nhiên, trong vòng 10 năm gần đây, từ năm 2008 đến năm 2018, việc thủy triều tăng lên rõ rệt hơn, chắc chắn không thể đổ cho biến đối khí hậu, mà do các tác động của con người.

Đáng chú ý là việc thiếu nước ngọt vào mùa khô dẫn đến tăng sử dụng nước ngầm lấy từ các tầng chứa nước sâu. (Nguồn: TTXVN)
Đáng chú ý là việc thiếu nước ngọt vào mùa khô dẫn đến tăng sử dụng nước ngầm lấy từ các tầng chứa nước sâu. (Nguồn: TTXVN)

Phân tích sâu hơn, chuyên gia Hà Lan cho biết nếu hoạt động khai thác nước ngầm ở Đồng bằng sông Cửu Long vẫn duy trì mức tăng 2% qua từng năm (ví dụ năm 2018 là 100m3, năm 2019 là 102m3), thì đến năm 2100, Đồng bằng sông Cửu Long sẽ bị chìm gần hết. “Con số 2% trên chỉ là nhận định khiêm tốn thôi, thực chất mỗi năm nguồn nước ngầm khai thác ở Đồng bằng sông Cửu Long đã tăng lên 2,5%. Nếu cứ hút như hiện nay, tương lai chính người dân vùng đồng bằng này sẽ phải trả giá đắt cho chi phí xử lý nguồn nước,” tiến sỹ Minderhoud nhấn mạnh./.

Xoay trục phát triển Đồng bằng sông Cửu Long

Xoay trục phát triển Đồng bằng sông Cửu Long Cần ‘đồng tâm hiệp lực’ của cả vùng

Hùng Võ

Trước dự báo, tình hình hạn hán, xâm nhập mặn tại Đồng bằng sông Cửu Long trong thời gian tới còn diễn biến phức tạp, tại cuộc họp với các địa phương vùng hạn mặn, tổ chức mới đây ở tỉnh Tiền Giang, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã nhấn mạnh: “Phải có quy hoạch tổng thể vùng Đồng bằng sông Cửu Long để có tầm nhìn dài hạn hơn chứ không phải nóng đâu phủi đó, đối phó từng năm.”

Nhiều ý kiến của giới chuyên gia, nhà khoa học cũng cho rằng để Đồng bằng sông Cửu Long phát triển bền vững, các tỉnh trong vùng cần gác lại “tư duy nhiệm kỳ” hay “lợi ích cục bộ địa phương.” Thay vào đó, các tỉnh cần “đồng tâm hiệp lực” để phát triển Đồng bằng sông Cửu Long thành điển hình mẫu mực về quy hoạch vùng trên cả nước.

NHỮNG CHUYỂN BIẾN BƯỚC ĐẦU TỪ BỘ BA CHÍNH SÁCH

Trước hàng loạt thách thức, nguy cơ của biến đổi khí hậu, báo động tốc độ di cư, từ năm 2016 đến nay, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã đặc biệt quan tâm tới vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Nổi bật là quy chế thí điểm liên kết phát triển kinh tế-xã hội vùng; đặc biệt là việc ban hành Nghị quyết 120/NQ-CP về phát triển bền vững Đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu – thường được gọi với cái tên là Nghị quyết “thuận thiên” theo một tư tưởng chủ đạo, xuyên suốt.

Chiều 23/9/2020, tại tỉnh Tiền Giang, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc chủ trì buổi làm việc với các địa phương vùng Đồng bằng sông Cửu Long về chủ động ứng phó với nguy cơ hạn, xâm nhập mặn mùa khô năm 2020-2021. (Ảnh: Thống Nhất/TTXVN)

Sau 3 năm thực hiện Nghị quyết, hệ thống cơ chế, chính sách bước đầu được hoàn thiện, tập trung thúc đẩy phát triển nông nghiệp hiện đại, bền vững; phát triển hạ tầng giao thông, đô thị, ổn định dân cư; gắn kết các quy hoạch phát triển; hoạt động hợp tác quốc tế cũng đã được thúc đẩy góp phần thu hút nguồn lực, tri thức cho đồng bằng. Trong đó, tổng vốn đầu tư cho đồng bằng sông Cửu Long so với cả nước tăng từ 12,2% (giai đoạn 2011-2015) lên 16,53% (2016-2020); đầu tư qua địa phương đạt khoảng 200.000 tỷ đồng, trong đó ngân sách Trung ương gần 90s.000 tỷ đồng; đầu tư qua Bộ, ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn 28.200 tỷ đồng, Giao thông Vận tải 32.961 tỷ đồng, Y tế 947,5 tỷ đồng,…

Quốc hội, Chính phủ cũng đã bố trí kinh phí để triển khai các dự án: Cầu Mỹ Thuận 2 trên tuyến cao tốc Bắc-Nam phía Đông, tuyến cao tốc Trung Lương-Mỹ Thuận và Mỹ Thuận-Cần Thơ, Quốc lộ 57 Bến Tre-Vĩnh Long, Quốc lộ 53 Trà Vinh-Long Toàn, Quốc lộ 30 Cao Lãnh-Hồng Ngự. Các dự án trọng điểm kết nối hạ tầng cơ sở gồm: đường Hồ Chí Minh đoạn Năm Căn-Đất Mũi, cầu Long Bình, luồng tàu biển lớn vào sông Hậu, Dự án kết nối vùng Đồng bằng sông Cửu Long…

Mới đây, vào tháng 6/2020, Thủ tướng cũng đã quyết định thành lập Hội đồng điều phối vùng Đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn 2020-2025, do Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng làm trưởng ban. Và theo chỉ đạo của Thủ tướng, quy hoạch vùng Đồng bằng sông Cửu Long thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 đang được xây dựng và sớm được ban hành, sẽ là quy hoạch vùng đầu tiên được triển khai theo Luật Quy hoạch, kỳ vọng sẽ trở thành điển hình mẫu mực về quy hoạch vùng.

Theo đánh giá của giới chuyên gia, bộ ba chính sách trên (Luật Quy hoạch, Nghị quyết “thuận thiên” và việc thành lập Hội đồng điều phối vùng) chính là “cơ hội vàng” cho vùng Đồng bằng sông Cửu Long phát triển mạnh mẽ trong thời gian tới.

Nhìn nhận ở góc độ nghiên cứu, ông Tăng Thế Cường – Cục trưởng Cục Biến đổi khí hậu (Bộ Tài nguyên và Môi trường) nhấn mạnh từ khi Nghị quyết “thuận thiên” được ban hành, lãnh đạo Đảng, Quốc hội, Chính phủ, đặc biệt là Thủ tướng Chính phủ đã quyết liệt chỉ đạo cả hệ thống chính trị vào cuộc, cùng với sự hưởng ứng nhiệt tình của người dân trong vùng Đồng bằng sông Cửu Long.

Nhờ đó, việc thực hiện Nghị quyết đã đạt được nhiều kết quả quan trọng như: hệ thống cơ chế, chính sách bước đầu được hoàn thiện, tập trung thúc đẩy phát triển nông nghiệp hiện đại, bền vững; phát triển nông nghiệp công nghệ cao và phát triển hạ tầng giao thông, đô thị cho vùng Đồng bằng sông Cửu Long, ổn định dân cư; gắn kết các quy hoạch phát triển; hoạt động hợp tác quốc tế được thúc đẩy, góp phần thu hút nguồn lực, tri thức, công nghệ cho Đồng bằng sông Cửu Long…

Hiện nay, Chính phủ cũng đang xem xét thông qua Chương trình hỗ trợ ngân sách có mục tiêu phát triển bền vững Đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu với số vốn 1,05 tỷ USD (tương đương 24.302 tỷ đồng). Riêng Bộ Giao thông Vận tải đã đề xuất chủ trương đầu tư 38 dự án cho vùng này với số vốn 94.500 tỷ đồng cho giai đoạn 2021-2025.

Ngoài ra, Nghị quyết 120 cũng đã thúc đẩy chuyển đổi quy mô lớn theo cơ cấu kinh tế và theo lãnh thổ trên cơ sở phát huy tiềm năng thế mạnh của vùng và từng tiểu vùng; xung đột giữa các mô hình kinh tế đã và đang được giải quyết; kết nối liên vùng đang được thúc đẩy thông qua kết nối kinh tế, kết nối hạ tầng nội vùng và với Thành phố Hồ Chí Minh; khắc phục sụt lún, sạt lở bờ sông, bờ biển, bảo vệ môi trường, đảm bảo an sinh xã hội đang được triển khai thực hiện tập trung vào những vấn đề cấp bách; công tác điều tra cơ bản, quan trắc được tăng cường…

Với những kết quả nêu trên, ông Cường khẳng định Nghị quyết “thuận thiên” là chủ trương có tính đột phá về phát triển để kiến tạo vùng Đồng bằng sông Cửu Long phát triển bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu và an toàn, thịnh vượng.

Trong đó, phương châm “thuận thiên” đã được quán triệt thực hiện, qua đó giúp Đồng bằng sông Cửu Long chủ động thích ứng với tác động của biến đổi khí hậu, “sống chung” với lũ và coi lũ, nước mặn, nước lợ là tài nguyên để phát triển kinh tế với phân vùng hợp lý trên cơ sở phân bổ tài nguyên nước toàn vùng.

VẪN CÒN NHIỀU “ĐIỂM NGHẼN” ĐÁNG LƯU TÂM

Mặc dù đã có những chuyển biến mạnh mẽ nhờ việc ban hành và triển khai Nghị quyết 120/NQ-CP, song theo đánh giá của giới chuyên gia, Đồng bằng sông Cửu Long hiện vẫn đang đứng trước nhiều khó khăn, thách thức, như: thiếu sự chủ động, liên kết trong việc triển khai Nghị quyết của các bộ, ngành, địa phương; khó khăn khi huy động nguồn lực, chuyển đổi sản xuất thực sự mang lại hiệu quả kinh tế cao.

Thẳng thắn nhìn nhận thực tế trên, giáo sư tiến sỹ Trần Thục – Phó Chủ tịch Hội đồng tư vấn của Ủy ban quốc gia về Biến đổi khí hậu, cho rằng điều kiện tại Đồng bằng sông Cửu Long không còn những ưu đãi như trước; biến đổi khí hậu làm cho tình hình khó khăn hơn. Mặc dù, hiện nay vùng này vẫn còn nhiều nước, nhưng nước sạch cho nuôi trồng thủy sản thì không nhiều. Về giống, chúng ta có giống lúa rất tốt, giống cây ăn quả nhiều nhưng giống của thủy sản thì chưa nhiều.

Tương tự, đối với thủy sản, cây ăn trái, nếu không bán được chắc chắn sẽ bị hỏng.

Cũng theo ông Thục, mặc dù Đồng bằng sông Cửu Long đã hướng tới việc liên kết liên vùng với Thành phố Hồ Chí Minh, với khu vực Đông Nam Bộ – qua đó kỳ vọng sẽ góp phần mở ra cơ hội cho vùng trao đổi được về vốn, con người và công nghệ. Tuy nhiên liên kết với các khu vực này vẫn chưa đủ với Đồng bằng sông Cửu Long, bởi vùng này vẫn chưa có một trung tâm để thu hút, phát triển cho cả vùng.

“Cái khó ở Đồng bằng sông Cửu Long là giống nhau nhiều mặt. Lúa, thủy sản, cây ăn trái các tỉnh đều giống nhau, nên trong quy hoạch cần xác định rõ những nơi nào có thế mạnh hơn để phát triển kinh tế và liên kết tốt hơn,” ông Thục chia sẻ.

Ngoài ra, việc hoàn thiện thể chế, chính sách triển khai thực hiện các nhiệm vụ theo Nghị quyết “thuận thiên” vẫn còn chậm; một số chính sách đã được ban hành nhưng chưa đi vào cuộc sống vì chưa đồng bộ với nguồn lực thực hiện, như Nghị định số 57/2018/NĐ-CP của Chính phủ về cơ chế, chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn; dẫn đến hiệu quả chính sách không cao.

Có chung quan điểm, ông Trần Công Thắng – Viện trưởng Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển nông nghiệp nông thôn, cho rằng Nghị định 57/2018/NĐ-CP là một trong những Nghị định có nhiều điểm đổi mới. Tuy nhiên, việc triển khai vẫn còn chậm. Nguyên nhân là bởi nguồn lực triển khai từ ngân sách Trung ương và địa phương, nhưng các tỉnh dựa vào nông nghiệp nhiều, ngân sách địa phương để ưu tiên cho đầu tư cũng còn hạn chế, nên tuy đã triển khai nhưng chưa nhiều.

Bên cạnh đó, quá trình làm chính sách để ra Nghị định dù nhanh, nhưng để hướng dẫn, đưa tới cho các doanh nghiệp để doanh nghiệp hiểu hết và làm các thủ tục, phải mất khoảng 6-7 tháng; trong quá trình triển khai có rất nhiều vướng mắc khác cần có sự trao đổi giữa tác nhân được hưởng thụ với cơ quan quản lý ở địa phương và Trung ương. Những điều này làm hạn chế hiệu quả triển khai chính sách.

CẦN CƠ CHẾ ĐẶC THÙ ĐỂ “XOAY TRỤC” PHÁT TRIỂN VÙNG

Để khắc phục những “điểm nghẽn” trên, giáo sư tiến sỹ Trần Thục – Phó Chủ tịch Hội đồng tư vấn của Ủy ban quốc gia về Biến đổi khí hậu, cho rằng với điều kiện địa hình của Đồng bằng sông Cửu Long rất bằng phẳng và hệ thống kênh rạch chằng chịt, vùng này nên được xem là một tổng thể.

“Một hoạt động của một địa phương này có thể tác động tốt hoặc tác động xấu đến những vùng khác. Vì thế, theo tôi cần có quy hoạch tổng thể của Đồng bằng sông Cửu Long, không xét đến ngành, không xét đến địa giới hành chính. Có được quy hoạch như thế sẽ tạo được điều kiện của các bên tham gia thực hiện, đặc biệt là chính quyền địa phương và người dân, cộng đồng,” ông Thục nhấn mạnh.

Vị chuyên gia của Ủy ban quốc gia về Biến đổi khí hậu cũng lưu ý trong quy hoạch tổng thể vùng cần có mốc thời gian đủ dài. Thực tế cho thấy một Nghị quyết “ra đời” trong vòng 1 năm sẽ không thể kỳ vọng mang lại tác động nhanh được mà phải có quy luật thời gian. Bên cạnh đó cần xem xét quy mô về không gian và cần phải xem những kịch bản về rủi ro đối với việc thực hiện quy hoạch này.

“Tôi rất kỳ vọng quy hoạch tổng thể đang được Bộ Kế hoạch và Đầu tư xây dựng sẽ mang lại lợi ích và tháo gỡ các điểm nghẽn trên,” ông Thục nói và tin tưởng rằng các địa phương sử dụng kiến thức của người dân địa phương, áp dụng những kiến thức, kinh nghiệm nhỏ lẻ của họ sẽ biến thành kinh nghiệm lớn cho toàn vùng.

Ông Trần Công Thắng – Viện trưởng Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển nông nghiệp nông thôn, cũng khẳng định Đồng bằng sông Cửu Long là vùng trọng điểm của nông nghiệp. Mặc dù việc đầu tư của các doanh nghiệp vào vùng này chưa được nhiều, nhưng với những hợp lý về chính sách sẽ thu hút được thêm các nhà đầu tư – đầu tầu kéo theo việc sản xuất chuỗi. “Nếu làm tốt trong thời gian tới, sự ‘xoay trục’ sẽ còn nâng cao được hiệu quả hơn nữa,” ông Thắng nhấn mạnh.

Có chung quan điểm, ông Tăng Thế Cường – Cục trưởng Cục Biến đổi khí hậu, cho rằng để phát triển Đồng bằng sông Cửu Long cần phải có một cơ chế đặc thù, song cũng phải đặt chung trong bối cảnh quốc gia và cân đối với các vùng, miền.

Thực tế cho thấy từ năm 2016 đến nay, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành 3 cơ chế lớn cho vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Mặc dù, các cơ chế này vẫn chủ yếu về tăng cường trao đổi ở cấp độ chính sách về liên kết vùng nhưng đã hình thành các Tổ điều phối cấp Bộ, cấp tỉnh; Tổ chuyên gia tư vấn để giúp Hội đồng hoạt động hiệu quả, tham mưu cho Thủ tướng Chính phủ những cơ chế, chính sách đặc thù, các chiến lược, quy hoạch, chương trình, dự án quy mô vùng, liên vùng để phát triển bền vững Đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu.

“Đây là nền móng ban đầu cho việc hình thành và thực hiện các cơ chế chính sách phù hợp hơn với đặc điểm tự nhiên, điều kiện kinh tế-xã hội của Đồng bằng sông Cửu Long. Từ đó tháo gỡ được những rào cản và giải phóng hiệu quả nguồn lực cho phát triển bền vững vùng trong thời gian tới,” ông Cường chia sẻ.

Tại Hội nghị báo cáo và tham vấn Quy hoạch vùng Đồng bằng sông Cửu Long thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 tổ chức mới đây, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng cũng nhận định mặc dù còn khá nhiều thách thức, song vùng vẫn có rất nhiều lợi thế, cơ hội phát triển.

Theo ông Dũng, vùng Đồng bằng sông Cửu Long có vị trí địa lý chiến lược, nằm ở trung tâm khu vực ASEAN, là cửa ngõ kết nối của các hành lang kinh tế tiểu vùng MeKong mở rộng (GMS), có nhiều lợi thế phát triển kinh tế biển, biên mậu, giao thương quốc tế; nguồn nhân lực còn rất nhiều dư địa để phát triển và cải thiện chất lượng, trong đó, các địa phương trong vùng vẫn đang trong thời kỳ dân số vàng.

Đặc biệt, nền nông nghiệp của vùng hiện vẫn đang nắm giữ rất nhiều sản phẩm ưa chuộng của thị trường thế giới với nhu cầu ngày càng tăng, như nông sản hữu cơ, tôm, cá tra, trái cây, lúa gạo; Đồng bằng sông Cửu Long có lợi thế đặc biệt về các nguồn năng lượng tái tạo, bao gồm năng lượng mặt trời, năng lượng gió, năng lượng sinh khối, năng lượng từ sóng biển và thủy triều…

“Do vậy, định hướng phát triển năng lượng tái tạo ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long có thể xem là một chiến lược biến nguy cơ, thách thức của biến đổi khí hậu thành lợi thế, cơ hội phát triển,” ông Dũng nhấn mạnh./.

Hạn mặn Đồng bằng sông Cửu Long

Những hậu quả khôn lường

5 năm gần đây, Đồng bằng sông Cửu Long đã phải hứng chịu 2 đợt xâm nhập mặn lịch sử vào mùa khô năm 2015-2016 và 2019-2020, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất và đời sống dân sinh; khiến hàng chục nghìn hécta lúa, cây ăn trái bị thiệt hại đặc biệt là cây sầu riêng. (Ảnh: Minh Sơn/Vietnam+)

Thiệt hại nặng nề nhất là vùng Cai Lậy (Tiền Giang) khi vùng nước tưới tiêu độ mặn đã đến ngưỡng 8 và những cây sầu riêng nơi đây đang đếm ngược từng ngày để ‘chết’. (Ảnh: Minh Sơn/Vietnam+)

Những thân cây gầy rộc đi, từng tầng lá bắt đầu vàng úa biểu hiện cho việc sắp tàn lụi. Ít ai có thể tưởng tượng rằng, chỉ vài năm trước, nơi đây được coi là ‘thủ phủ sầu riêng’ của miền Tây Nam Bộ. (Ảnh: Minh Sơn/Vietnam+)

‘Sầu riêng thì không phải lúc mặn nó chết ngay đâu, mà sau mặn mới chết. Đất bị nhiễm mặn, rễ nó chết là chết từ từ’, những người nông dân trồng sầu riêng ở đây cho biết. (Ảnh: Minh Sơn/Vietnam+)

Ông Năm Toàn, một nông dân trồng sầu riêng ở Cai Lậy lặng người đứng cạnh những gốc sầu riêng đã bị đốn hạ (Ảnh: Minh Sơn/Vietnam+)

(Ảnh: Minh Sơn/Vietnam+)

Anh Nguyễn Văn Lõi trước đây anh cũng trồng sầu riêng. Tuy nhiên bâu giờ anh đi đốn sầu riêng để cải thiện thu nhập. Anh Lõi tỏ ra hoang mang vì khi hết cây để đốn, thì anh cũng hết sinh kế tạm thời. (Ảnh: Minh Sơn/Vietnam+)
Anh Nguyễn Văn Lõi trước đây anh cũng trồng sầu riêng. Tuy nhiên bâu giờ anh đi đốn sầu riêng để cải thiện thu nhập. Anh Lõi tỏ ra hoang mang vì khi hết cây để đốn, thì anh cũng hết sinh kế tạm thời. (Ảnh: Minh Sơn/Vietnam+)
Một bãi tập kết gỗ sầu riêng hình thành sau khi hạn mặn. Một gốc cây này khi đã đốn xuống chỉ còn có giá 20 ngàn đồng, trong khi lúc còn sống và cho ra trái, nó có thể đem lại cho chủ vườn 10-15 triệu đồng/năm. (Ảnh: Minh Sơn/Vietnam+)
Một bãi tập kết gỗ sầu riêng hình thành sau khi hạn mặn. Một gốc cây này khi đã đốn xuống chỉ còn có giá 20 ngàn đồng, trong khi lúc còn sống và cho ra trái, nó có thể đem lại cho chủ vườn 10-15 triệu đồng/năm. (Ảnh: Minh Sơn/Vietnam+)
Một người nông dân trồng sầu riêng khác ở Cai Lậy là ông Tư Văn. 110 gốc sầu riêng của ông đang nằm chờ chết vì vô phương cứu chữa. (Ảnh: Minh Sơn/Vietnam+)
Một người nông dân trồng sầu riêng khác ở Cai Lậy là ông Tư Văn. 110 gốc sầu riêng của ông đang nằm chờ chết vì vô phương cứu chữa. (Ảnh: Minh Sơn/Vietnam+)
Có cây vẫn còn lá, nhưng đang héo rũ. Có cây đã trụi còn trơ khung. Vài cây lớn chỉ còn mỗi thân, phía ngọn vát chéo xuống như bị chém. Nhưng dù hình thức ra sao, thì kết cục chung đều là phải chặt: đất quá mặn và rễ cây đã chết rồi. (Ảnh: Minh Sơn/Vietnam+)
Có cây vẫn còn lá, nhưng đang héo rũ. Có cây đã trụi còn trơ khung. Vài cây lớn chỉ còn mỗi thân, phía ngọn vát chéo xuống như bị chém. Nhưng dù hình thức ra sao, thì kết cục chung đều là phải chặt: đất quá mặn và rễ cây đã chết rồi. (Ảnh: Minh Sơn/Vietnam+)

Ông Tư Văn bên trong ngôi nhà đã 3 năm rồi vẫn chưa được hoàn thiện nốt của mình vì mòn mỏi chờ trúng một vụ sầu riêng. (Ảnh: Minh Sơn/Vietnam+)

Ông Đỗ Thái Hùng là một trong những người trồng sầu riêng hiếm hoi giữ được nhiều cây còn sống, nhưng vụ vừa rồi cũng không thu hoạch được gì vì ảnh hưởng hạn mặn. (Ảnh: Minh Sơn/Vietnam+)
Ông Đỗ Thái Hùng là một trong những người trồng sầu riêng hiếm hoi giữ được nhiều cây còn sống, nhưng vụ vừa rồi cũng không thu hoạch được gì vì ảnh hưởng hạn mặn. (Ảnh: Minh Sơn/Vietnam+)

‘Sầu riêng khó trồng, nó bệnh rồi thì không cứu được, cứu thuốc gì cũng không được, như là cái bao tử bị hư rồi thì ăn gì cũng không được.’ những người nông dân giải thích. (Ảnh: Minh Sơn/Vietnam+)

Những cây sầu riêng chết héo quay quắt chọc thẳng lên nền trời xanh thăm thẳm. (Ảnh: Minh Sơn/Vietnam+)
Những cây sầu riêng chết héo quay quắt chọc thẳng lên nền trời xanh thăm thẳm. (Ảnh: Minh Sơn/Vietnam+)

Những gốc sầu riêng mới đang được trồng với niềm hy vọng nhỏ nhoi của những người nông dân nơi đây. Cuộc đời của họ đã gắn chặt sâu đến nỗi họ có thể mất tất cả nếu sầu riêng chết hết. (Ảnh: Minh Sơn/Vietnam+)

Ở huyện Thới Bình, Cà Mau, những người nông dân trồng lúa nơi đây lại đang đánh vật với hạn mặn xâm nhập khiến nền kinh tế của họ kiệt quệ. Ông Trần Bình Đặng đứng lặng người bên ruộng lúa kết hợp vuông tôm của gia đình mình hiện đã chết hết. (Ảnh: Minh Sơn/Vietnam+)

Trong gần 20 năm, mô hình lúa-tôm là chìa khóa giúp người nông dân ở huyện Thới Bình, Cà Mau chống chọi lại với sự khắc nghiệt của mảnh đất này. Tuy nhiên do ảnh hưởng của hạn mặn, ngoài ruộng nhìn từ xa vẫn còn màu xanh nhưng lại gần mới thấy gốc lúa đã chết khô. (Ảnh: Minh Sơn/Vietnam+)

Đầu năm 2020, nước nhiễm mặn quá nặng, tôm thả xuống không lớn nổi. Cuối tháng Tám, ảnh hưởng của bão gây ngập úng, tôm cua sót lại bò khỏi vuông, trôi ra sông. Những con còn sót lại cũng chết vì đáy vuông tôm bị lạnh. Khi gieo sạ vụ lúa Đông Xuân, đất bị nhiễm phèn và mặn quá nặng, lúa cũng chỉ lên được tầm một gang tay là bắt đầu chết. (Ảnh: Minh Sơn/Vietnam+)

Đáng nói là, thực tế đáng buồn trên được dự báo sẽ còn xảy ra, khi nhiều nghiên cứu công bố trong thời gian gần đây đã cảnh báo vùng đồng bằng này hiện chỉ cao 1-2m so với mực nước biển và nếu tiếp tục để khai thác cát và nước ngầm tự do như hiện nay thì đến năm 2100, nguy cơ vựa lúa số 1 của Việt Nam sẽ bị chìm. (Ảnh: Minh Sơn/Vietnam+)

Những người thực hiện:
Những người thực hiện:

Phạm An, Võ Mạnh Hùng, Lê Minh Sơn, Phan Hải Tùng Lâm, Hoàng Đạt
Biên tập: Nguyễn Bích Thuận, Võ Hoàng Long
Thiết kế: Thanh Trà