Nhìn lại hơn 10 năm thực hiện

ttxvnhanoi-1587478150-42.jpg

LỜI NÓI ĐẦU

“Ý thức chấp hành pháp luật về trật tự an toàn giao thông của nhiều người tham gia giao thông còn rất kém, coi thường pháp luật; vi phạm trật tự an toàn giao thông vẫn diễn ra phổ biến; tai nạn giao thông, ùn tắc giao thông và chống người thi hành công vụ diễn biến hết sức phức tạp” – Đây là đánh giá của Bộ Công an khi nhìn lại hơn 10 năm thi hành Luật Giao thông đường bộ (có hiệu lực thi hành từ 1/7/2009).

Điều này có nguyên nhân từ những bất cập của thể chế. Luật đã bộc lộ những tồn tại, hạn chế cả về công tác bảo đảm trật tự an toàn giao thông và phát triển, quản lý kết cấu hạ tầng giao thông, quản lý vận tải đường bộ, đòi hỏi cần có một đạo luật đủ sức mạnh để điều chỉnh vấn đề bảo đảm an ninh, trật tự an toàn giao thông đường bộ và vấn đề xây dựng, phát triển, kết cấu hạ tầng giao thông, quản lý vận tải đường bộ.

Phóng viên TTXVN thực hiện chùm 3 bài viết “Nhìn lại hơn 10 năm thực hiện Luật Giao thông đường bộ.”

Kết quả chưa vững chắc

Theo thống kê của Bộ Công an, trong 10 năm (từ năm 2009 đến năm 2019), trên 56,3 triệu trường hợp vi phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ đã bị xử lý, nộp Kho bạc nhà nước 25.801 tỷ đồng.

Gần 3,7 triệu trường hợp bị tước giấy phép lái xe, trung bình một năm xử lý trên 5 triệu trường hợp vi phạm. Vi phạm chủ yếu là do ý thức của người điều khiển phương tiện không chấp hành pháp luật như điều khiển phương tiện vi phạm tốc độ, nồng độ cồn, sử dụng chất ma túy; không chấp hành yêu cầu kiểm tra, kiểm soát, xử lý của người thi hành công vụ; đi không đúng phần đường, làn đường; tránh vượt, chuyển hướng, lùi xe không đúng quy định; chở quá số người quy định, không có giấy phép lái xe, không chấp hành hiệu lệnh của đèn tín hiệu giao thông; phương tiện không đảm bảo an toàn kỹ thuật, sử dụng giấy phép lái xe, đăng ký xe, giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật giả…

Tai nạn giao thông gây thiệt hại mỗi ngày 300-500 tỷ đồng

Cũng trong 10 năm qua, cả nước đã xảy ra 326.299 vụ tai nạn giao thông đường bộ, làm chết 97.721 người, bị thương 329.756 người. Trung bình mỗi năm, tai nạn giao thông cướp đi sinh mạng của gần 10.000 người, trong đó nhiều người trong độ tuổi lao động.

Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), tai nạn giao thông ở Việt Nam gây thiệt hại 2,5% GDP/năm, tương đương mỗi ngày 300-500 tỷ đồng. Kết quả kiềm chế và làm giảm tai nạn giao thông chưa vững chắc, số người chết và bị thương do tai nạn giao thông vẫn rất cao, tiềm ẩn nhiều nguy cơ gia tăng tai nạn giao thông, còn xảy ra 866 vụ tai nạn giao thông đặc biệt nghiêm trọng, gây xôn xao dư luận xã hội.

Tai nạn giao thông ở Việt Nam gây thiệt hại 2,5% GDP/năm, tương đương mỗi ngày 300-500 tỷ đồng. 

Vụ tai nạn xảy ra tại ngã tư Nhựt Chánh, huyện Bến Lức (Long An), ngày 2/1/2019 đã khiến ba người tử vong tại chỗ, một người tử vong trên đường đi cấp cứu, 18 người khác bị thương, hư hỏng 21 xe máy. Vụ tai nạn thảm khốc xảy ra ngày 21/1/2019 tại Hải Dương, khi một xe tải đâm vào đoàn người đi viếng nghĩa trang khiến 8 người thiệt mạng, 5 người bị thương.

Vụ xe khách đâm vào đoàn người đưa tang làm 7 người chết, 3 người bị thương sáng 27/3/2019, tại Yên Lạc, Vĩnh Phúc…Những vụ tai nạn này vẫn là nỗi ám ảnh với nhiều người. Phân tích nguyên nhân, Cục Cảnh sát Giao thông cho biết, lỗi vi phạm của người tham gia giao thông chiếm trên 90% số vụ; do an toàn kỹ thuật phương tiện và công trình giao thông đường bộ chỉ chiếm gần 10% số vụ.

Hiện trường một vụ tai nạn giao thông ở Ninh Thuận, tháng 4/2020. (Nguồn: TTXVN)
Hiện trường một vụ tai nạn giao thông ở Ninh Thuận, tháng 4/2020. (Nguồn: TTXVN)

Đánh giá về tình hình ùn tắc giao thông, Cục Cảnh sát Giao thông cho hay, ùn tắc trên các trục giao thông chính, đầu mối giao thông trọng điểm, các đô thị loại 1, đặc biệt là địa bàn Thủ đô Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh ngày càng trở nên phức tạp, thường xuyên, liên tục, có xu hướng lan rộng cả không gian và thời gian. Ô nhiễm môi trường từ hoạt động của phương tiện giao thông ngày càng nghiêm trọng, gây ra những thiệt hại không nhỏ về kinh tế, ảnh hưởng xấu đến sức khỏe và đời sống của nhân dân, tác động không tốt đến môi trường du lịch, thu hút đầu tư nước ngoài và hình ảnh của Việt Nam đối với bạn bè quốc tế.

Từ năm 2009-2019, cả nước xảy ra 1.712 vụ ùn tắc giao thông kéo dài, gây tắc nghẽn trên diện rộng tại các đô thị lớn và trên các tuyến cao tốc, quốc lộ trọng điểm.

Bên cạnh đó, tình hình người tham gia giao thông coi thường pháp luật, không chấp hành, thậm chí chống lại người thi hành công vụ diễn ra nhiều, ngày càng manh động, phức tạp. Toàn quốc đã xảy ra 542 vụ chống lại lực lượng làm công tác bảo đảm trật tự an toàn giao thông, làm 7 cán bộ, chiến sỹ hy sinh, 181 người bị thương.

Phương tiện tăng nhanh, hạ tầng bất cập

Theo số liệu của Bộ Công an, tổng số ôtô, môtô trên cả nước đang được đăng ký, quản lý là hơn 66 triệu xe, trong đó ôtô là hơn 4,31 triệu xe và môtô là hơn 61,7 triệu xe.

Thực trạng tham gia giao thông ở Việt Nam hiện nay là giao thông hỗn hợp với rất nhiều các loại phương tiện cơ giới, thô sơ…, trong đó chủ yếu là xe cá nhân

Với 96,2 triệu dân năm 2019, mật độ phương tiện giao thông ở Việt Nam là 726 phương tiện/1000 người. Tỷ lệ ôtô cá nhân/1000 người dân ở nước ta ở mức trung bình thấp so với các nước, nhưng đã bất cập với hạ tầng giao thông. Phương tiện giao thông tăng nhanh (so sánh năm 2019 với năm 2009: ôtô đăng ký mới tăng 110%; môtô đăng ký mới tăng 34%), bình quân tăng từ 10-15%/năm, chủ yếu là phương tiện cá nhân, tập trung tại các thành phố lớn như Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng.

Thực trạng tham gia giao thông ở Việt Nam hiện nay là giao thông hỗn hợp với rất nhiều các loại phương tiện cơ giới, thô sơ…, trong đó chủ yếu là xe cá nhân, nhiều phương tiện không đảm bảo tiêu chuẩn an toàn kỹ thuật khi tham gia giao thông, nhiều phương tiện đã được mua, bán, cho, tặng qua nhiều chủ nhưng chưa làm thủ tục chuyển quyền sở hữu.

Các phương tiện chở hàng hóa cồng kềnh gây mất an toàn giao thông trên địa bàn thành phố. (Ảnh: Minh Đức/TTXVN)
Các phương tiện chở hàng hóa cồng kềnh gây mất an toàn giao thông trên địa bàn thành phố. (Ảnh: Minh Đức/TTXVN)

Thực tiễn công tác quản lý nhà nước về an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội cho thấy, trên các tuyến giao thông đường bộ, vấn đề tụ tập đông người trái pháp luật, các loại tội phạm như ma túy, cướp, cướp giật, trộm cắp, vận chuyển vũ khí, chất nổ trái phép, cố ý gây thương tích, gây rối trật tự công cộng… diễn biến hết sức phức tạp. Trên các tuyến giao thông đường bộ, 10 năm qua, lực lượng Cảnh sát Giao thông đã phát hiện, bắt và bàn giao cho các cơ quan chức năng xử lý theo thẩm quyền 5.228 đối tượng phạm pháp hình sự.

Theo quy định của pháp luật, Công an là lực lượng trực tiếp, thường xuyên và chịu trách nhiệm chính tuần tra, kiểm soát, xử lý vi phạm đối với người, phương tiện trên các tuyến giao thông đường bộ. Tuy nhiên, hiện nay, một số lực lượng khác cũng trực tiếp kiểm tra, kiểm soát, xử lý vi phạm trên đường, gây ra sự trùng chéo chức năng, nhiệm vụ.

Trong công tác tổ chức giao thông, thông qua các hoạt động nghiệp vụ bảo đảm trật tự an toàn giao thông, lực lượng Cảnh sát Giao thông đã chủ động phát hiện nhiều bất hợp lý trong tổ chức giao thông đô thị cũng như tổ chức giao thông trên các tuyến quốc lộ, tuyến cao tốc…, qua đó có văn bản kiến nghị với ngành giao thông để sửa chữa, khắc phục, nhằm hạn chế các nguyên nhân gây tai nạn giao thông và ùn tắc giao thông.

Hiện nay, một số lực lượng khác cũng trực tiếp kiểm tra, kiểm soát, xử lý vi phạm trên đường, gây ra sự trùng chéo chức năng, nhiệm vụ.

Tuy nhiều bất hợp lý trong tổ chức giao thông đã được phát hiện và gửi kiến nghị khắc phục, nhưng việc tổ chức khắc phục ở một số nơi, một số thời gian tiến hành chậm, làm ảnh hưởng đến công tác bảo đảm trật tự an toàn giao thông.

Đánh giá của ngành giao thông vận tải cho thấy, hiện nay, kết cấu hạ tầng giao thông tuy đã được quan tâm đầu tư, xây dựng nhưng chưa đạt yêu cầu đề ra, còn một số hạn chế, bất cập và chưa đồng bộ. Trong 10 năm qua, tỷ lệ quỹ đất giao thông đô thị so với đất xây dựng đô thị còn thấp hơn so với quy định; tại Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và các đô thị lớn khác, mới chỉ đạt từ 5-12%, trong khi theo yêu cầu là từ 16%-26%. Việc phát triển hệ thống đường cao tốc, đường quốc lộ, đường địa phương còn thiếu và chưa đồng bộ.

Lực lượng CSGT Công an tỉnh Bình Định kiểm tra nồng độ cồn của lái xe. (Ảnh: Nguyên Linh/TTXVN)
Lực lượng CSGT Công an tỉnh Bình Định kiểm tra nồng độ cồn của lái xe. (Ảnh: Nguyên Linh/TTXVN)

Vận tải đường bộ hiện phải đảm nhận tỷ trọng lớn (chiếm khoảng 70% vận tải hành khách và hàng hóa trong tổng số các loại hình vận tải). Chất lượng dịch vụ đã được nâng cao nhưng chưa đồng đều, còn tồn tại các đơn vị vận tải nhỏ lẻ. Các loại hình kinh doanh vận tải chưa được phân định rõ ràng, dẫn đến tình trạng cạnh tranh không lành mạnh và thiếu minh bạch.

Tình trạng “xe dù, bến cóc” diễn biến phức tạp và ngày càng khó kiểm soát giữa xe tuyến cố định và xe hợp đồng trá hình… Việc quản lý người lái xe kinh doanh vận tải còn thiếu chặt chẽ. Việc ứng dụng công nghệ trong quản lý kinh doanh vận tải còn có những mặt hạn chế.

Một trong những nguyên nhân chủ yếu, căn bản dẫn đến tình trạng trên là do quy định của pháp luật về bảo đảm trật tự an toàn giao thông chưa đầy đủ, thiếu chặt chẽ, chưa phù hợp với tình hình giao thông hiện nay./.

Còn nhiều tồn tại, hạn chế

Không thể phủ nhận những kết quả tích cực do Luật Giao thông đường bộ mang lại sau hơn 10 năm thực hiện, cả về phát triển giao thông vận tải và bảo đảm trật tự an toàn giao thông, góp phần phát triển kinh tế-xã hội và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. Song, Luật cũng đã bộc lộ không ít tồn tại, hạn chế.

Chồng chéo, giảm hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước

Luật Giao thông đường bộ năm 2008 đồng thời điều chỉnh hai lĩnh vực khác nhau là bảo đảm trật tự an toàn giao thông đường bộ (thuộc lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội, do ngành Công an chịu trách nhiệm chính) và lĩnh vực xây dựng, phát triển, quản lý kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ, quản lý vận tải đường bộ (thuộc lĩnh vực kinh tế-kỹ thuật, do ngành giao thông vận tải chịu trách nhiệm chính).

Để triển khai thực hiện Luật này, 164 văn bản dưới luật đã được ban hành.

Việc phân công nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan chức năng về bảo đảm trật tự an toàn giao thông thiếu rõ ràng, chưa rành mạch, không xác định được cơ quan nào chịu trách nhiệm chính dẫn đến chồng chéo, tăng tổ chức bộ máy và tăng biên chế, làm giảm hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, chưa giải quyết được thực trạng phức tạp về trật tự an toàn giao thông đường bộ như mục tiêu đề ra.

Để triển khai thực hiện Luật này, 164 văn bản dưới luật đã được ban hành, trong đó có 22 nghị định của Chính phủ, 25 thông tư của Bộ Công an, 87 thông tư của Bộ Giao thông Vận tải, 11 thông tư của Bộ Tài chính, một thông tư của Bộ Y tế và 18 thông tư liên tịch giữa các bộ có liên quan.

(Ảnh: Doãn Tấn/TTXVN)
(Ảnh: Doãn Tấn/TTXVN)

Đến nay,một số văn bản hết hiệu lực, nhiều văn bản phải sửa đổi, bổ sung, thay thế thường xuyên và còn một số văn bản chưa ban hành được. Điều này thể hiện thiếu tính ổn định, không tập trung, thống nhất, chưa phù hợp với quan điểm pháp chế xã hội chủ nghĩa, xu hướng lập pháp hiện nay, gây khó khăn cho việc tổ chức thực hiện và chưa đủ mạnh về pháp lý để giải quyết các vấn đề thực tiễn đặt ra cả về bảo đảm trật tự an toàn giao thông đường bộ và xây dựng, phát triển kết cấu hạ tầng giao thông, quản lý vận tải đường bộ.

Đại tá Đỗ Thanh Bình, Phó Cục trưởng Cục Cảnh sát Giao thông (Bộ Công an) cho biết, nhiều chính sách trong lĩnh vực bảo đảm trật tự an toàn giao thông đường bộ còn thiếu, bất cập. Luật không quy định cụ thể về hệ thống báo hiệu đường bộ mà quy định trong thông tư của bộ quản lý chuyên ngành, tính pháp lý thấp, thường xuyên thay đổi và nhiều quy định chưa phù hợp thực tiễn.

Hành lang pháp lý chưa đủ mạnh

Tại nhiều cuộc họp của Ủy ban An toàn giao thông quốc gia, Thượng tướng Lê Quý Vương, Thứ trưởng Bộ Công an đã đề cập đến việc các quy định về sát hạch cấp giấy phép lái xe; quản lý cấp mới, cấp lại, cấp đổi giấy phép lái xe không được quy định trong Luật mà quy định trong thông tư của bộ quản lý chuyên ngành, nên khi thực hiện đã bộc lộ nhiều kẽ hở trong công tác quản lý, nhiều lái xe chưa đảm bảo yêu cầu về trình độ, kỹ năng, đạo đức lái xe.

Sự lỏng lẻo trong công tác cấp và cấp lại giấy phép lái xe đã dẫn đến tình trạng hàng trăm nghìn giấy phép lái xe tạm giữ, bị tước quyền sử dụng, tồn đọng tại cơ quan Cảnh sát Giao thông mà người vi phạm không đến xử lý, không đến nhận. Không ít trường hợp trong số đó, cơ quan Cảnh sát Giao thông phát hiện đã được cấp lại giấy phép lái xe khác, thậm chí có người sở hữu tới 2-3 giấy phép lái xe.

Sự lỏng lẻo trong công tác cấp và cấp lại giấy phép lái xe đã dẫn đến tình trạng hàng trăm nghìn giấy phép lái xe tạm giữ, bị tước quyền sử dụng, tồn đọng tại cơ quan Cảnh sát Giao thông

Từ năm 1995 trở về trước, việc tổ chức sát hạch, cấp, quản lý giấy phép lái xe do ngành Công an thực hiện khá chặt chẽ, nên ý thức chấp hành pháp luật, đạo đức của người lái xe khá tốt, tình trạng vi phạm và số vụ tai nạn giao thông nghiêm trọng do ý thức, trình độ lái xe không lớn. Công tác quản lý nhà nước về giấy phép lái xe đồng bộ hơn, giám sát chặt chẽ lịch sử những lái xe vi phạm.

Tuy nhiên, khi việc đào tạo, sát hạch lái xe, cấp, quản lý giấy phép lái xe được giao cho ngành giao thông vận tải đã phát sinh không ít hệ lụy. Việc đào tạo, sát hạch dễ dãi dẫn đến tình trạng lái xe có tiền sử tâm thần, đang bị truy nã, thậm chí đang thi hành án nhưng vẫn được cấp, đổi giấy phép lái xe.

Đây là nguyên nhân của nhiều vụ chống người thi hành công vụ, gây tai nạn thảm khốc đã từng xảy ra như vụ lái xe Phạm Ngọc Lâm (sinh năm 1970, trú ở Khánh Hòa) đã gây ra vụ tai nạn làm 34 người chết, 22 người bị thương ngày 7/5/2012, khi ôtô khách 47V-2371 do lái xe này điều khiển đang lưu thông hướng Đắk Lắk-Đắk Nông đã lao xuống sông Serepok. Lái xe này nghiện ma túy, đã từng lĩnh 8 năm tù vì án ma túy, nhưng trong quá trình thụ án vẫn được đổi giấy phép lái xe. Đến khi mãn hạn tù, Lâm lại được đổi giấy phép lần 2.

Việc đào tạo, sát hạch dễ dãi dẫn đến tình trạng lái xe có tiền sử tâm thần, đang bị truy nã, thậm chí đang thi hành án nhưng vẫn được cấp, đổi giấy phép lái xe. (Ảnh: Ngọc Minh/TTXVN) 
Việc đào tạo, sát hạch dễ dãi dẫn đến tình trạng lái xe có tiền sử tâm thần, đang bị truy nã, thậm chí đang thi hành án nhưng vẫn được cấp, đổi giấy phép lái xe. (Ảnh: Ngọc Minh/TTXVN) 

Có thể thấy, Luật Giao thông đường bộ hiện hành chưa quy định quản lý quá trình chấp hành pháp luật về trật tự an toàn giao thông của người được cấp giấy phép lái xe, dẫn đến khi được cấp giấy phép, người lái xe gần như bị “bỏ ngỏ,” không cơ quan nào chịu trách nhiệm chính trong việc quản lý, giám sát quá trình chấp hành pháp luật của người lái xe. Thiếu các quy định về quản lý người nước ngoài điều khiển phương tiện giao thông tại Việt Nam.

Bên cạnh đó, Luật cũng chưa quy định cụ thể và đầy đủ về các biện pháp tổ chức, chỉ huy, điều khiển giao thông, giải quyết ùn tắc thông, trách nhiệm giải quyết tai nạn giao thông đường bộ của cơ quan công an, y tế, bảo hiểm, cơ quan khai thác, bảo trì đường bộ, Ủy ban Nhân dân các cấp và các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan. Quy tắc giao thông còn thiếu, chung chung, chưa cụ rõ ràng và sát thực tiễn. Luật chưa có các chính sách, kế hoạch cụ thể về phát triển phương tiện để đảm bảo đồng bộ với sự phát triển của cơ sở hạ tầng, phù hợp với điều kiện kinh tế-xã hội Việt Nam; chưa có chế tài bắt buộc, đủ mạnh đối với các trường hợp mua, bán, cho, tặng xe nhưng không làm thủ tục chuyển quyền sở hữu…

“Luật có quy định về các hành vi bị nghiêm cấm, các quy định phải chấp hành, nhưng thiếu các biện pháp cưỡng chế hiệu quả.”

Một số vấn đề mới về ứng dụng khoa học công nghệ nhưng Luật chưa điều chỉnh như việc xem xét các thiết bị giám sát hành trình trên phương tiện, cũng như các camera giám sát giao thông và hình ảnh thu thập được từ các nguồn khác làm tài liệu bổ sung, hỗ trợ cho việc giải quyết tai nạn giao thông. Chính sách về quản lý, sử dụng hệ thống giám sát, xử lý vi phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ, trung tâm chỉ huy, điều khiển giao thông chưa cụ thể, rõ ràng và chưa xác định cơ quan chịu trách nhiệm chính trong công tác này.

“Luật có quy định về các hành vi bị nghiêm cấm, các quy định phải chấp hành, nhưng thiếu các biện pháp cưỡng chế hiệu quả,” theo Đại tá Đỗ Thanh Bình.

Một cảnh sát giao thông bị hành hung.
Một cảnh sát giao thông bị hành hung.

Thời gian qua, tình hình người tham gia giao thông coi thường pháp luật, không chấp hành, thậm chí chống lại người thi hành công vụ diễn ra nhiều, ngày càng manh động, phức tạp. Từ năm 2009–2019, toàn quốc đã xảy ra 542 vụ chống lại lực lượng làm công tác bảo đảm trật tự an toàn giao thông, làm 7 cán bộ, chiến sỹ hy sinh, 181 người bị thương. Trong số các nguyên nhân dẫn đến tình trạng này, có nguyên nhân do hành lang pháp lý về trật tự an toàn giao thông chưa đủ mạnh; công tác quản lý nhà nước về trật tự an toàn giao thông còn nhiều bất cập, kém hiệu quả.

Báo cáo của ngành giao thông vận tải đã chỉ rõ, nhiều chính sách pháp luật về đầu tư, phát triển hạ tầng thiếu quy định cụ thể và có nhiều tồn tại, hạn chế trong tổ chức thực hiện, như vấn đề thu phí không dừng, dự án BOT, xây dựng đường giao thông nông thôn, cơ chế giám sát công trình giao thông, cơ chế huy động vốn, tiêu chuẩn kỹ thuật an toàn về xây dựng hệ thống đường bộ chưa đáp ứng yêu cầu… Việc đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ không chỉ được điều chỉnh bởi Luật Giao thông đường bộ mà còn chịu sự điều chỉnh của nhiều luật có liên quan như các Luật Đất đai, Đấu thầu, Đầu tư, Đô thị, Quy hoạch, Xây dựng…. Do đó, việc triển khai thực hiện các dự án đầu tư hạ tầng giao thông đường bộ gặp nhiều khó khăn. Các chính sách quản lý về kinh doanh vận tải chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn, việc ứng dụng công nghệ trong công tác quản lý còn hạn chế./.

Cần một khung pháp lý đủ mạnh

Những tồn tại, hạn chế trong công tác bảo đảm trật tự an toàn giao thông thời gian qua có nguyên nhân căn bản là do quy định của pháp luật về bảo đảm trật tự an toàn giao thông chưa đầy đủ, thiếu chặt chẽ, chưa phù hợp với tình hình giao thông hiện nay. Xây dựng một khung pháp lý đủ mạnh để điều chỉnh về vấn đề này là vấn đề đang đặt ra.

Để giải quyết tận gốc vấn đề, theo Bộ Công an, cần có sự tách bạch giữa vấn đề về bảo đảm an ninh, trật tự an toàn giao thông đường bộ và vấn đề về xây dựng, phát triển, kết cấu hạ tầng giao thông, quản lý vận tải đường bộ.

Xây dựng Luật Bảo đảm trật tự an toàn giao thông đường bộ

Tại Hội nghị đánh giá tác động xã hội, tác động giới của chính sách trong đề nghị Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2021 và điều chỉnh chương trình năm 2020 do Ủy ban Về các vấn đề xã hội của Quốc hội phối hợp với Bộ Tư pháp tổ chức vừa qua, Bộ Công an cho biết, Luật Giao thông đường bộ năm 2008 tuy đã có quy định về trách nhiệm của cá nhân, cơ quan, tổ chức khi xảy ra tai nạn giao thông nhưng chưa quy định cụ thể về công tác giải quyết tai nạn giao thông đường bộ. Công tác giải quyết tai nạn giao thông đường bộ nếu được quy định đầy đủ, rõ ràng sẽ góp phần giảm thiểu thiệt hại do tai nạn giao thông gây ra.

Ba phương án được bộ này đưa ra, đó là giữ nguyên hiện trạng; điều chỉnh quy định về chính sách trong nghị định của Chính phủ hoặc thông tư của Bộ trưởng để bảo đảm điều chỉnh kịp thời đáp ứng yêu cầu thực tiễn; ban hành mới Luật Bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ.

Luật Giao thông đường bộ năm 2008 tuy đã có quy định về trách nhiệm của cá nhân, cơ quan, tổ chức khi xảy ra tai nạn giao thông nhưng chưa quy định cụ thể về công tác giải quyết tai nạn giao thông đường bộ.

Đánh giá về phương án giữ nguyên hiện trạng, Bộ Công an cho rằng, tai nạn giao thông nếu không được giải quyết kịp thời sẽ ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người dân. Bên cạnh đó, việc giải quyết hậu quả vụ tai nạn giao thông liên quan đến thẩm quyền và trách nhiệm của nhiều cơ quan, tổ chức có liên quan như công an, y tế, bảo hiểm, Ủy ban Nhân dân địa phương nơi xảy ra tai nạn, trong khi luật hiện hành và các văn bản dưới luật chưa quy định cơ chế giải quyết vụ tai nạn giao thông một cách rõ ràng, đồng bộ, gây nhiều khó khăn, ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của các bên có liên quan trong vụ tai nạn.

Đối với phương án điều chỉnh quy định về chính sách trong nghị định của Chính phủ hoặc thông tư của Bộ trưởng để bảo đảm điều chỉnh kịp thời đáp ứng yêu cầu thực tiễn, phương án này phát sinh chi phí để sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới nhiều văn bản dưới luật để tổ chức thực hiện.

Công an thành phố Quy Nhơn khám nghiệm hiện trường, điều tra nguyên nhân vụ tai nạn. (Ảnh: Nguyên Linh/TTXVN)
Công an thành phố Quy Nhơn khám nghiệm hiện trường, điều tra nguyên nhân vụ tai nạn. (Ảnh: Nguyên Linh/TTXVN)

Việc giải quyết tai nạn giao thông nếu chỉ căn cứ vào các văn bản dưới luật như hiện nay sẽ gặp nhiều vướng mắc, thiếu thống nhất với các đạo luật như Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự. Do đó, việc giải quyết của cơ quan chức năng gặp khó khăn, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân có liên quan.

Do vậy, phương án tối ưu là xây dựng Luật Bảo đảm trật tự an toàn giao thông đường bộ để điều chỉnh chuyên sâu các nội dung về trật tự an toàn giao thông đường bộ, tách bạch với lĩnh vực xây dựng, phát triển kết cấu hạ tầng giao thông, quản lý hoạt động vận tải đường bộ, tạo ra một hành lang pháp lý đủ mạnh để giải quyết những vấn đề cấp bách thực tiễn đang đặt ra, bảo đảm cả hai lĩnh vực quản lý nhà nước được thực hiện hiệu lực, hiệu quả và chuyên nghiệp hơn.

Luật hóa đầy đủ các quy định về trật tự an toàn giao thông

Luật Bảo đảm trật tự an toàn giao thông sẽ luật hóa đầy đủ và có hệ thống các quy định về trật tự an toàn giao thông; ưu tiên ứng dụng khoa học, kỹ thuật công nghệ hiện đại trong giám sát, chỉ huy, điều hành giao thông, kiểm soát, phát hiện, xử lý vi phạm; xác định rõ cơ quan chủ trì, chịu trách nhiệm chính và cơ quan có trách nhiệm phối hợp để bảo đảm hiệu quả, tránh chồng chéo hoặc bỏ sót các nhiệm vụ quản lý.

Phương án tối ưu là xây dựng Luật Bảo đảm trật tự an toàn giao thông đường bộ để điều chỉnh chuyên sâu các nội dung về trật tự an toàn giao thông đường bộ

Đại tá Đỗ Thanh Bình, Phó Cục trưởng Cục Cảnh sát Giao thông (Bộ Công an) cho biết, dự luật bổ sung nội dung trích xuất dữ liệu từ các thiết bị giám sát hành trình trên phương tiện, các camera giám sát giao thông và hình ảnh thu thập được từ các nguồn khác; áp dụng các phương tiện thiết bị kỹ thuật hiện đại để xem xét quy trình thao tác, điều khiển phương tiện tham gia giao thông, xác định nồng độ cồn, ma túy và chất kích thích khác đối với người điều khiển phương tiện giao thông để giải quyết tai nạn giao thông một cách khách quan, chính xác.

Dự luật quy định cụ thể về hệ thống báo hiệu, quy tắc giao thông đường bộ. Đặc biệt, nhằm khắc phục kẽ hở trong công tác quản lý, nâng cao trình độ, kỹ năng, đạo đức lái xe, gắn trách nhiệm của chủ phương tiện đối với việc đảm bảo an toàn kỹ thuật của phương tiện, luật quy định về cụ thể về trách nhiệm của chủ phương tiện và người lái xe trong việc bảo dưỡng kỹ thuật, sửa chữa phương tiện để đảm bảo duy trì tình trạng an toàn kỹ thuật của phương tiện; điều kiện của người lái xe tham gia giao thông; giấy phép lái xe; tuổi, sức khỏe của người lái xe; đào tạo lái xe; sát hạch để cấp giấy phép lái xe…

Kíp trực cán bộ, chiến sỹ Cảnh sát giao thông làm nhiệm vụ xử lý vi phạm qua hệ thống camera tại Trung tâm điều khiển giao thông Hà Nội. (Ảnh: Doãn Tấn/TTXVN)
Kíp trực cán bộ, chiến sỹ Cảnh sát giao thông làm nhiệm vụ xử lý vi phạm qua hệ thống camera tại Trung tâm điều khiển giao thông Hà Nội. (Ảnh: Doãn Tấn/TTXVN)

Khắc phục tồn tại của Luật Giao thông đường bộ, không xác định được bộ, ngành nào chịu trách nhiệm chính trong công tác bảo đảm an toàn giao thông, làm giảm hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, dự luật đề cập đến phân công trách nhiệm quản lý nhà nước của Bộ Công an, Bộ Giao thông Vận tải, các bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy ban Nhân dân các cấp theo đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn một cách rõ ràng, rành mạch, đúng quy định của pháp luật về tổ chức bộ máy của các cơ quan nhà nước, trong đó xác định Bộ Công an là cơ quan chịu trách nhiệm chính trong công tác quản lý nhà nước về trật tự an toàn giao thông đường bộ.

Việc phân công cụ thể, rõ ràng, đúng chức năng, nhiệm vụ sẽ nâng cao trách nhiệm và phát huy tính chủ động, sáng tạo của từng bộ, ngành, địa phương, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước về trật tự an toàn giao thông đường bộ, góp phần quan trọng làm chuyển biến tình hình trật tự an toàn giao thông, kiềm chế, làm giảm tai nạn giao thông, ùn tắc giao thông.

Không tăng biên chế, tổ chức bộ máy

Theo Bộ Công an, hiện nay, lực lượng Công an đã được tổ chức ở 4 cấp từ Trung ương đến cấp xã. Do đó, việc phân công, phân cấp thực hiện các nhiệm vụ bảo đảm trật tự an toàn giao thông rất thuận lợi, các chính sách được triển khai đến cơ sở và ngay tại cơ sở theo hệ thống ngành dọc thống nhất, thông suốt.

Khi chính sách pháp luật về bảo đảm trật tự an toàn giao thông đường bộ có sự thay đổi, ngành tiến hành đào tạo, tập huấn và sắp xếp, bố trí số cán bộ, chiến sỹ Công an Nhân dân đang làm nhiệm vụ bảo đảm trật tự an toàn giao thông trong tổng số biên chế hiện có, đồng thời tăng cường ứng dụng khoa học, công nghệ hiện đại để nâng cao hiệu quả công tác và đảm bảo không tăng biên chế, tổ chức bộ máy.

Khi Luật Bảo đảm trật tự an toàn giao thông đường bộ được ban hành sẽ đủ mạnh để kiểm soát tình hình, tác động đến công tác quản lý Nhà nước tốt hơn.

Đối với các bộ, ngành khác được phân công một số nhiệm vụ quản lý nhà nước về trật tự an toàn giao thông đường bộ, khi ban hành Luật này, nguồn lực vẫn được sử dụng trong tổng số biên chế hiện có, trên cơ sở sắp xếp, bố trí, đào tạo, tập huấn số cán bộ, công chức, viên chức trong tổ chức bộ máy của mình, đồng thời tăng cường ứng dụng khoa học, công nghệ để nâng cao hiệu quả công tác, không phát sinh thêm biên chế mới.

Xu hướng hiện nay là đẩy mạnh xã hội hóa một số dịch vụ (như kiểm định xe cơ giới, đào tạo lái xe), theo đó, Nhà nước chủ yếu tập trung quản lý việc sát hạch, cấp giấy phép lái xe, quản lý quá trình chấp hành pháp luật của người lái xe sau khi được cấp giấy phép và quản lý các điều kiện đảm bảo an toàn của phương tiện khi tham gia giao thông, không can thiệp sâu vào hoạt động đào tạo lái xe, kiểm định an toàn kỹ thuật, do đó sẽ giảm chi phí từ ngân sách nhà nước và không tăng biên chế, tổ chức bộ máy.

Khi Luật Bảo đảm trật tự an toàn giao thông đường bộ được ban hành sẽ đủ mạnh để kiểm soát tình hình, tác động đến công tác quản lý Nhà nước tốt hơn, đảm bảo hành lang pháp lý cho các lực lượng chức năng thực hiện nhiệm vụ hiệu lực, hiệu quả hơn.

Luật góp phần nâng cao chất lượng của người điều khiển phương tiện tham gia giao thông để làm giảm vi phạm, tai nạn và ùn tắc giao thông, góp phần tạo chuyển biến căn bản về ý thức tự giác chấp hành pháp luật của người tham gia giao thông, hình thành văn hóa giao thông văn minh, tiệm cận với nhiều quốc gia tiên tiến trên thế giới./.